TS. Phạm Thị Xuân
Trường Đại học Giao thông vận tải
Email: xuan_pt@utc.edu.vn
Tóm tắt: Năng suất lao động (NSLĐ) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những thước đo quan trọng nhất để đánh giá, so sánh trình độ phát triển giữa các quốc gia cũng như giữa các lĩnh vực trong từng quốc gia, bài viết nghiên cứu lý luận của C. Mác về các nhân tố tác động đến NSLĐ. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng NSLĐ ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Từ khóa: Năng suất lao động, quan điểm, Việt Nam
Summary
Labor productivity is a comprehensive economic indicator of special importance, one of the most important measures to evaluate and compare the level of development between countries as well as between sectors in each country. This article studies C. Marx's theory on factors affecting labor productivity. On that basis, proposes a number of solutions to increase labor productivity in our country in the current socialist-oriented market economy.
Keywords: Labor productivity, viewpoint, Vietnam
GIỚI THIỆU
NSLĐ là phạm trù kinh tế phản ánh năng lực sản xuất, mức độ, hiệu quả của hoạt động lao động sản xuất. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Tăng NSLĐ là tăng thêm số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc giảm bớt thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. NSLĐ được xem xét đối với từng người lao động, từng đơn vị sản xuất (NSLĐ cá biệt) cũng như đối với toàn xã hội (NSLĐ xã hội). Tăng NSLĐ thực chất là tiết kiệm chi phí lao động (lao động quá khứ và lao động sống).
LÝ THUYẾT CỦA C. MÁC VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NSLĐ
C. Mác khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã nhận định “sức sản xuất của lao động được quyết
định bởi rất nhiều tình hình” [1], C. Mác cho rằng những “tình hình” này chính là các nhân tố tác động đến NSLĐ, chia chúng thành các yếu tố cụ thể sau:
Thứ nhất, trình độ khéo léo của người lao động
Theo C. Mác NSLĐ phụ thuộc vào sự khéo léo và thành thạo của người lao động. Người lao động có trình độ kỹ năng càng cao thì càng làm việc hiệu quả, không chỉ trong công việc thủ công mà còn khi vận hành máy móc. Với tốc độ làm việc cao của máy móc, công nhân cần có kỹ năng phù hợp để theo kịp. C. Mác cũng nhấn mạnh rằng, trình độ thành thạo này được cải thiện thông qua việc đào tạo hoặc làm việc thường xuyên, giúp giảm bớt các động tác không cần thiết và tối ưu hóa thời gian lao động. Theo đó, với độ dài ngày lao động như nhau, trình độ thành thạo của người lao động càng cao, thì NSLĐ càng tăng.
Thứ hai, mức độ phát triển của khoa học và khả năng áp dụng khoa học vào quá trình sản xuất
Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác nhận định khoa học tách ra khỏi lao động trở thành “tiềm lực sản xuất độc lập” [2]. Ứng dụng khoa học vào quá trình sản xuất với biểu hiện rõ nét là việc đổi mới quy trình sản xuất và đưa ngày càng nhiều máy móc vào quá trình sản xuất. C. Mác cho rằng, “máy móc là phương tiện mạnh nhất để tăng NSLĐ”, trong hệ thống các nhân tố tác động đến NSLĐ [1]. Do đó, nếu sử dụng ngày càng nhiều máy móc với quy mô ngày càng lớn kết quả là “…chẳng những sản xuất ra đủ bảo đảm sự tiêu dùng dồi dào cho tất cả mọi người trong xã hội và gây một quỹ dự trữ quan trọng…” [3].
Thứ ba, sự phân công lao động và sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất
C. Mác cho rằng, phân công lao động chính là “phương tiện để sản xuất ra được nhiều hàng hóa hơn với một số lượng lao động như cũ” [1], hay phân công lao động chính là một nhân tố quan trọng nâng cao NSLĐ. Để nâng cao NSLĐ theo C. Mác, không chỉ có phân công lao động, mà còn phải gắn phân công lao động với kết hợp xã hội trong quá trình sản xuất. Theo đó, phải đưa người lao động đơn lẻ làm việc trong những khâu, những bước khác nhau vào một không gian chung, có sự liên kết với nhau trong quá trình sản xuất. Sự kết hợp không chỉ xảy ra ở các công trường thủ công, mà ngay cả khi bước vào giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, khi mà sản xuất bằng máy móc ngày càng nhiều hơn, thì càng cần đến sự kết hợp xã hội ấy.
Thứ tư, điều kiện tự nhiên
C. Mác nhận định: “NSLĐ gắn liền với những điều kiện tự nhiên” [1]. Điều kiện tự nhiên được nhắc đến bao gồm: Các loại tài nguyên dùng làm tư liệu sinh hoạt như: khí hậu, mức độ màu mỡ của đất đai, dòng nước...; Các tài nguyên dùng làm tư liệu lao động như thác nước chảy xiết, sông ngòi mà thuyền bè có thể đi lại được, gỗ, kim loại, than đá… Sự tác động của loại thứ nhất đến NSLĐ được C. Mác cho là “tính chất màu mỡ của đất đai càng lớn, thì khí hậu càng thuận lợi, thời gian lao động cần thiết để duy trì và tái xuất ra người sản xuất lại càng ít” [1]. Do đó, giá trị của các tư liệu sinh hoạt cũng giảm xuống, nên giá trị của sức lao động giảm xuống hay NSLĐ tăng lên. Về loại thứ hai - các loại tài nguyên được dùng làm tư liệu sản xuất, những nguồn tài nguyên này trong tự nhiên nhiều, thì việc khai thác cũng thuận lợi hơn, tốn ít công sức hơn và theo đó giá trị của chúng cũng giảm xuống, hay NSLĐ đã tăng lên nhờ vào sự dồi dào của các loại tài nguyên thiên nhiên.
Thứ năm, quan hệ sản xuất
C. Mác cho rằng, trong từng giai đoạn phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì NSLĐ cũng có sự biến động tăng lên cùng với quá trình phát triển của quan hệ sản xuất ấy. Điều này đã được C. Mác chứng minh khi nghiên cứu về 3 giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản từ hợp tác đơn giản, đến công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, NSLĐ đã tăng lên liên tục trong 3 giai đoạn ấy. C. Mác phân tích, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhà tư bản luôn hướng tới mục tiêu thu ngày càng nhiều giá trị thặng dư hơn, nhưng do không thể kéo dài ngày lao động vượt quá khả năng lao động của người lao động và đạo luật công xưởng cũng quy định rút ngắn thời gian ngày lao động, nên để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động tất yếu để tái sản xuất sức lao động. Điều này phụ thuộc vào NSLĐ, nhưng “năng suất ấy lại phụ thuộc vào sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” [4], như vậy, sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy NSLĐ không ngừng tăng lên dưới chủ nghĩa tư bản.
THỰC TRẠNG NSLĐ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm và chú trọng thực hiện những giải pháp tăng NSLĐ. Điều này được thể hiện rõ khi tăng NSLĐ xã hội là một trong những chỉ tiêu chủ yếu được đặt ra trong các nghị quyết Đại hội Đảng. Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra chỉ tiêu tăng NSLĐ xã hội bình quân khoảng 5%/năm cho giai đoạn 2016-2020. Đến Đại hội XIII đặt mục tiêu tăng NSLĐ xã hội bình quân giai đoạn 2021-2025 là trên 6,5%/năm.
Để tăng NSLĐ từ Đại hội lần thứ XI đến nay, Đảng xác định rõ phát triển nguồn nhân lực cùng với thể chế và hệ thống kết cấu hạ tầng là 3 đột phá chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhân tố căn bản, cốt lõi để tăng NSLĐ, tạo nền tảng phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo phát triển đất nước nhanh, hiệu quả và bền vững.
Cụ thể hóa những chủ trương theo tinh thần các Nghị quyết Đại hội Đảng, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch liên quan đến nâng cao NSLĐ. Ngày 08/11/2023, Chính phủ đã phê duyệt “ Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030” nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Nhờ chủ trương, đường lối, chính sách, giải pháp của Đảng, Nhà nước, NSLĐ của nước ta tăng trưởng tích cực, liên tục, dần thu hẹp khoảng cách với các nước.
Trong giai đoạn 2011-2020, NSLĐ theo giá hiện hành đã tăng từ 70 triệu đồng/lao động vào năm 2011 lên 150.1 triệu đồng/lao động vào năm 2020, gấp 2.1 lần so với năm 2011. Bình quân giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ tăng NSLĐ theo giá hiện hành đạt 5,29%; trong đó, bình quân giai đoạn 2011-2015 tăng 4,53%; bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 6,05%, vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm giai đoạn 2016-2020 cao hơn 5,5%.
Năm 2021, tốc độ tăng NSLĐ chỉ đạt 4,6% so với năm 2020 do kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19. Mặc dù năm 2022 đạt mức tăng trưởng cao 8,02% nhưng NSLĐ của nền kinh tế cũng chỉ tăng 4,7% so với năm trước. Bình quân hai năm 2021-2022, NSLĐ tăng 4,65%/năm, thấp khá xa so với mục tiêu kế hoạch kinh tế -xã hội giai đoạn 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm 2021-2030 đặt ra là tốc độ tăng NSLĐ bình quân mỗi năm trên 6,5%. Để đạt được mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2021-2025, thì bình quân 3 năm 2023-2025, mỗi năm NSLĐ cần phải tăng khoảng 7,8% [5].
Theo Tổng cục thống kê, NSLĐ của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8,38 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, NSLĐ tăng 4,65%. Bình quân giai đoạn 2011-2015 tăng 4,53%; giai đoạn 2016_2020 tăng 6,05%, và giai đoạn 2021-2023 tăng 4,3%. Theo đó, từ năm 2011 đến nay, NSLĐ tăng 2,84 lần, từ 70 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 199,3 triệu đồng/ lao động năm 2023.
Theo Ngân hàng Thế giới, tính theo sức mua tương đương (PPP), trong giai đoạn 2021 - 2022, NSLĐ Việt Nam tăng trung bình 4% /năm, cao hơn nhiều bình quân chung của thế giới là 2% và đứng thứ 2 Đông Nam Á (NSLĐ bình quân của singapore, Indonesia, Malaysia, Campuchia, Thai Land, Philippines lần lượt là 5,8%, 3,7%, 3,3%, 2,2%, 1,9% và 1,2%; trong khi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản tăng lần lượt 3,5%,1,7% và 1,5%).
Tăng NSLĐ đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo báo cáo tình hình thị trường lao động việc làm của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân tháng của người lao động nước ta liên tục tăng; năm 2023 ước đạt 7,1 triệu đồng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 459 nghìn đồng so với năm 2022; quý I/2024 ước đạt 7,6 triệu đồng, tăng 549 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù việc thực hiện mục tiêu tăng NSLĐ ở nước ta đã đạt được những kết quả tích cực song cũng các số liệu cũng cho thấy, vẫn còn những hạn chế trong giai đoạn 2021-2023, tỷ lệ tăng NSLĐ là 4,3%, thấp hơn mục tiêu đề ra là 6,5%/năm.
Xét theo giá trị tuyệt đối, NSLĐ của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Trong khu vực Asean, năng suất lao động của Việt Nam vào năm 2021, xếp vị trí thứ 6, cao hơn NSLĐ của Philippines, Lào, Campuchia và Myanmar. Tuy nhiên, so với các quốc gia Asean-6, thì NSLĐ của Việt Nam vẫn còn khá thấp và còn khoảng cách khá xa so với các nước này. Cụ thể, NSLĐ của Singapore cao gấp 7,27 lần; Brunei cao gấp 5,48 lần; Malaysia cao gấp 2,5 lần và Thái Lan cao gấp 1,48 lần NSLĐ của Việt Nam. Như vậy, NSLĐ của Việt Nam đã có sự tăng trưởng qua các năm, nhưng mức tăng vẫn còn thấp và còn thua kém xa về NSLĐ so với các quốc gia phát triển trong khu vực, đáng chú ý là mức chênh lệch tuyệt đối về NSLĐ của Việt Nam và các quốc gia ngày càng gia tăng.
Năng suất lao động theo khu vực kinh tế đều có sự cải thiện đáng kể, nhưng có sự khác biệt nhất định (Bảng). Năm 2022, NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 215 triệu đồng/lao động, đồng thời là khu vực có mức NSLĐ cao nhất trong 3 khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ đạt 119,2 triệu đồng/lao động; đáng chú ý là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản từ mức tăng NSLĐ 48,2 triệu đồng/lao động năm 2019 đã đạt 81.1 triệu đồng/lao động trong năm 2022 do Tổng cục Thống kê đã loại trừ lao động làm các công việc tự sản, tự tiêu khỏi khu vực này.
Bảng: Năng suất lao động theo các khu vực kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng/lao động
|
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
NSLĐ chung |
129,1 |
141,0 |
150,1 |
153,5 |
165,0 |
Nông, lâm nghiệp và thủy sản |
42,2 |
48,2 |
57,4 |
76,6 |
51,1 |
Công nghiệp và xây dựng |
173,2 |
172,4 |
179,0 |
195,6 |
215,0 |
Dịch vụ công |
154,9 |
169,0 |
173,7 |
188,3 |
199,2 |
Năng suất lao động, theo loại hình kinh tế: NSLĐ của các khu vực kinh tế đều có sự gia tăng đáng ghi nhận. Năm 2015, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có mức NSLĐ cao nhất và đạt 283.5 triệu đồng/năm, đến năm 2020, mức NSLĐ của khu vực này tăng lên và đạt 339,9 triệu đồng/lao động. Tiếp theo là khu vực kinh tế nhà nước, đến năm 2020, mức NSLĐ của khu vực này tăng lên và đạt 405.6 triệu đồng/lao động, kinh tế khu vực kinh tế ngoài nhà nước có mức NSLĐ thấp nhất đạt 90.8 triệu đồng/ lao động vào năm 2020.
MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NSLĐ Ở NƯỚC TA
Qua nội dung phân tích nêu trên cho thấy, NSLĐ của Việt Nam đã có sự gia tăng trong giai đoạn gần đây nhưng vẫn còn khá thấp khi so sánh với các nước trong khu vực ASEAN. Một số nguyên nhân chính của tình trạng này có thể kể đến như sau:
Chất lượng lao động
Theo báo cáo NSLĐ Việt Nam giai đoạn 2015-2024, chất lượng lao động là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định tăng NSLĐ. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở Việt Nam mặc dù tăng từ 20,4%/năm 2015 tăng lên 27,0% vào năm 2023, nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp. Đa phần lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình. Nhiều lao động vẫn tập trung vào các ngành có năng suất thấp như nông nghiệp và dịch vụ cấp thấp.
Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn khá thấp. Số liệu ở 3 bảng cho thấy, theo tiêu chuẩn phân loại trình độ giáo dục quốc tế (ISCED) của UNESCO tại Việt Nam, 50,41% nhân lực có trình độ đạt mức cơ bản, tức là ở mức giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là chủ yếu, 12,34% nhân lực có trình độ văn hóa dưới mức cơ bản, trình độ văn hóa ở mức trung bình, đạt 25,24% và trình độ văn hóa ở mức nâng cao của nhân lực chỉ đạt 12,01%. Trình độ nhân lực ở mức nâng cao của Việt Nam vẫn còn kém xa các nước Singapore, Malaysia, Brunei.
Khoa học công nghệ
Khoa học - công nghệ được đặt ở vị trí là động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế -xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng NSLĐ xã hội, tuy nhiên, trong thời gian qua, các hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam chưa thực sự ở vào vị trí này, các chính sách, kế hoạch ...của các địa phương nhằm áp dụng khoa học và công nghệ để phát triển các ngành, các lĩnh vực chưa sâu, đầu tư còn dàn trải, tính khả thi chưa cao.
Về cơ bản, trình độ khoa học - công nghệ của Việt Nam ( trừ các lĩnh vực, như: công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng…), thì vẫn còn khoảng cách để có thể được xếp vào nhóm dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, đa số các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ cũ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, khả năng đổi mới công nghệ hạn chế được nghiên cứu, ứng dụng từ các trường đại học, trung tâm nghiên cứu ra khu vực doanh nghiệp còn ở mức thấp.
Tiền lương
Theo lý luận của C. Mác quan hệ sản xuất là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới năng suất lao động, bao gồm quan hệ phân phối, biểu hiện là chính sách tiền lương đối với người lao động, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tiền lương, thưởng và phúc lợi với động lực làm việc của người lao động. Khi tiền lương được cải thiện, người lao động cảm thấy hài lòng hơn và có xu hướng cống hiến nhiều hơn cho công việc, góp phần làm năng suất cao hơn. Trong nhiều năm qua, với sự nỗ lực của chính phủ và các giải pháp nâng cao thu nhập cho người lao động, thu nhập từ tiền lương ngày càng tăng, đóng góp lớn vào tăng NSLĐ quốc gia nhưng không đồng đều giữa các vùng miền.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, thu nhập bình quân của người lao động đạt 7,1triệu đồng/tháng, tăng 459.000đồng (tương đương 6,9%) so với năm 2022. Thu nhập bình quân tháng của lao động năm là 8,1 triệu đồng, gấp 1,36 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (6 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị gấp 1,4 lần, khu vực nông thôn (8,7 triệu đồng so với 6,2 triệu đồng). Năm qua, lao động làm việc trong một số ngành kinh tế ghi nhận tốc độ tăng thu nhập bình quân so với năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân tháng của lao động làm việc trong ngành khai khoáng là 10,3 triệu đồng, tăng 11,2%; ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống là 6,8 triệu đồng, tăng 8,6%; ngành vận tải kho bãi là 9,8 triệu đồng, tăng 8,3%, tương ứng tăng 749.000 đồng; ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 4,1 triệu đồng, tăng 6,6%.
Người lao động dù muốn gắn bó nhưng cũng không thể ở lại mãi với công ty khi lương thấp. Tình trạng nhảy việc cao (8-12% mỗi tháng) ở các ngành đông lao động phần nào phản ánh mức lương chưa tương xứng với công sức lao động.
Thể chế, chính sách của Nhà nước
Chính sách của Nhà nước có tác động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sự khuyến khích hay không khuyến khích sẽ tác động đến tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển kinh tế, qua đó tác động đến tăng trưởng năng suất lao động, kể từ khi tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế vào năm 1986, chính phủ cùng các cơ quan chức năng đã tạo điều kiện thuận lợi với khung pháp lý rộng mở tại cơ hội phát triển trong mọi thành phần kinh tế, đồng thời giúp tăng cường NSLĐ góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, đến nay vẫn tồn tại những hạn chế trong các chính sách và thể chế của nhà nước, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển và hội nhập của nền kinh tế. Các văn bản luật còn chồng chéo, thiếu rõ ràng và chi tiết, gây ra những trở ngại cho hoạt động kinh tế cũng như sự phát triển của doanh nghiệp, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NSLĐ Ở VIỆT NAM
Lịch sử kinh tế thế giới chứng minh, NSLĐ là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của từng quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Trong thế giới ngày nay, tăng NSLĐ là một trong những nhân tố quan trọng nhất để các nước đang phát triển nỗ lực vươn lên, hướng đến phát triển nhanh và bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Nghiên cứu lý luận của C. Mác về các nhân tố tác động đến NSLĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Đây chính là các cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nhằm tăng NSLĐ của nền kinh tế vốn đang còn rất thấp hơn nhiều so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Về phía nhà nước
Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, “trình độ khéo léo của người lao động”
Chất lượng nguồn nhân lực mang ý nghĩa quyết định việc thúc đẩy, nâng cao NSLĐ và phát triển kinh tế. Xây dựng hệ thống cơ sở giáo dục, đào tạo và các cấp với nguồn nhân lực chất lượng cao, trang bị cơ sở vật chất hiện đại, đủ sức đảm nhận nhiệm vụ giáo dục, đào tạo cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, tập trung nâng cấp về mọi mặt cho các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề nhằm đáp ứng được nhu cầu lao động trình độ tay nghề cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần đẩy mạnh đổi mới chương trình đào tạo, gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục và thực tiễn, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp và công nghệ. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp để người học có cơ hội thực hành thực tế và rèn luyện kỹ năng. Ngoài ra, việc phát triển giáo dục nghề nghiệp, đào tạo lại lao động và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong giảng dạy cũng là giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, tăng cường phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo khả năng ứng dụng vào quá trình sản xuất
Trong các nhân tố ảnh hưởng tới NSLĐ, khoa học và công nghệ là một yếu tố quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Vì vậy, để nâng cao NSLĐ cần chú trọng các giải pháp phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta. Trước hết, cần đẩy mạnh đầu tư và nghiên cứu phát triển (R&D), khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức áp dụng công nghệ tiên tiến, nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất và giảm thiểu chi phí. Các chính sách hỗ trợ nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp công nghệ cần được ưu tiên, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho sáng tạo và đổi mới.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ cần được đẩy mạnh, để học hỏi và chuyển giao công nghệ hiện đại từ các nước phát triển. Hệ thống giáo dục và đào tạo cũng cần chú trọng trang bị cho người lao động kiến thức và kỹ năng liên quan đến công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và internet vạn vật (IoT)… Cuối cùng, việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu và đổi mới công nghệ, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận vốn và công nghệ, sẽ giúp gia tăng khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, từ đó nâng cao NSLĐ trong dài hạn.
Thứ ba, xác lập mức lương tối thiểu thỏa đáng
Chế độ đãi ngộ thỏa đáng, nhất là tiền lương, phúc lợi xã hội, khen thưởng, tôn vinh kịp thời người lao động là một trong những giải pháp quan trọng nâng cao NSLĐ. Mức lương tối thiểu cần đảm bảo đủ để tái sản xuất sức lao động, cần được thiết lập dựa trên mức sống cơ bản, phản ánh chi phí sinh hoạt thực tế và đảm bảo người lao động có thể trang trải cuộc sống. Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng NSLĐ, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Chính phủ cần nghiên cứu, xác lập mức lương tối thiểu thỏa đáng, để tiền lương thực sự là động lực tăng NSLĐ. Chính sách tiền lương thỏa đáng sẽ khuyến khích người lao động nỗ lực hơn trong công việc, từ đó tăng hiệu suất làm việc.
Ngoài ra, cần bổ sung các chế độ khác như tăng độ bao phủ bảo hiểm xã hội với mục tiêu đến năm 2030 đạt 60% như kế hoạch; thúc đẩy bình đẳng giới về thu nhập bằng các biện pháp cụ thể, không chỉ bảo đảm tiền lương như nhau cho công việc như nhau mà quan trọng hơn là đảm bảo tiền lương như nhau cho công việc có giá trị như nhau; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội đi kèm với cơ sở hạ tầng về trường học, bệnh viện và các tiện ích cơ bản khác để người lao động thu nhập thấp đạt được ước mơ sở hữu căn nhà riêng của mình trong những năm tới. Việc khen thưởng và tôn vinh kịp thời những người lao động xuất sắc cũng đóng góp vai trò thúc đẩy tinh thần làm việc và tạo động lực cho cả tập thể, từ đó giúp nâng cao NSLĐ một cách bền vững.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách chính sách tiền lương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và lãng phí
Đây là giải pháp trọng tâm nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Theo đó, giải phóng sức sản xuất, tăng NSLĐ của nền kinh tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhất là thể chế về sở hữu; thể chế về phân phối; thể chế về phát triển kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh...
Xác lập các nguyên tắc sử dụng quản lý lao động phù hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng, minh bạch; cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết và không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là các điều kiện kinh doanh, thực hiện chính phủ điện tử nhằm hiện đại hóa quá trình tiếp nhận và trả hồ sơ; đồng thời, có giải pháp ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực nhà nước để tham nhũng, tiêu cực và lãng phí, nhờ đó góp phần làm cho NSLĐ xã hội tăng lên.
Trong điều kiện đẩy mạnh toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập quốc tế, tự do hóa thương mại và cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần nắm bắt cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, cũng nỗ lực vượt qua thách thức, khó khăn, thông qua định hướng phát triển đúng đắn và giải pháp hiệu quả trong nâng cao năng suất, nhất là NSLĐ. Cải thiện, thúc đẩy tăng NSLĐ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng NSLĐ đồng nghĩa với phát triển nhanh, bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và rút ngắn khoảng cách với các quốc gia trong khu vực. Đây cũng là vấn đề sống còn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Về doanh nghiệp
- Cộng đồng doanh nghiệp phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội; ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng giá trị chứ không phải tăng thời gian làm việc của người lao động, có chiến lược nâng cao NSLĐ thông qua chú trọng tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, tập trung đầu tư nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, quản trị doanh nghiệp.
- Đổi mới tư duy để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động thông qua việc ứng dụng các công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới, có điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù và văn hóa của doanh nghiệp.
- Đổi mới tư duy để nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả hoạt động thông qua việc ứng dụng các công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới có điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù và văn hóa của doanh nghiệp.
- Tập trung đào tạo kỹ năng cho người lao động, tổ chức lại lao động, trong đó chú trọng kết hợp hiệu quả giữa lao động và máy theo từng công đoạn sản xuất giúp tăng năng suất lao động.
- Các doanh nghiệp phải rèn luyện tác phong công nghiệp, nâng cao ý thức kỷ luật lao động cho người lao động, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần có thêm các hình thức giảng dạy, trang bị tác phong công nghiệp cho người lao động để trở thành "thói quen, nếp nghĩ, nếp làm"; có quy chế tài chính, cho phép công đoàn cơ sở có đủ nguồn lực trong đầu tư chi tiêu cho các hoạt động đào tạo, tuyên truyền, khen thưởng về tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động…
- Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; tạo dựng môi trường làm việc an toàn, sạch đẹp; có chế độ lương, thưởng đối với người lao động có nhiều sáng kiến, năng suất cao, chất lượng tốt.
Về phía người lao động
- Nâng cao ý thức, kỷ luật lao động; với tác phong, ý thức chấp hành pháp luật và kỷ luật lao động vì điều này không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chính người lao động, khi có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, làm việc nghiêm túc, chịu khó học hỏi, rèn luyện tay nghề...thì người lao động sẽ nâng cao NSLĐ của chính bản thân mình, tạo uy tín trong môi trường làm việc và có cơ hội để nâng cao thu nhập. Vì vậy, cần có sự nỗ lực từ lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động để góp phần hình thành hệ ý thức, kỷ luật chung của người lao động.
- Không ngừng trau dồi, tự học tập nâng cao trình độ, kỹ năng, tay nghề, kinh nghiệm, khả năng thích ứng; nâng cao tinh thần năng động sáng tạo, năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc. Đây là yêu cầu tất yếu, nếu không đáp ứng được, thì người lao động có thể bị đào thải trong quá trình phát triển chung của doanh nghiệp./.
Tài liệu tham khảo
1. C. Mác và Ph. Ang Ghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. C. Mác và Ph. Ang Ghen, Toàn tập, Tập 16, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. C. Mác và Ph. Ang Ghen, Toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. C. Mác và Ph.Ang Ghen, Toàn tập, Tập 48, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Giang, T. (2024), Tǎng năng suất lao động: Con đường ngắn nhất đưa nền kinh tế phát triển nhanh, truy cập từ
6. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo Nǎng suất lao đông Viêt Nam giai đoạn 2015-2020.
Ngày nhận bài: 05/3/2025; Ngày phản biện: 10/3/2025; Ngày duyệt đăng: 13/3/2025 |