Thực trạng phát triển vốn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

14/03/2025 20:30

Bài viết phân tích thực trạng phát triển vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh, qua đó, đề xuất các giải pháp gỡ khó giúp doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh một cách hiệu quả.

ThS. Phạm Thanh Vân

Email: ptvan@ufm.edu.vn

ThS. Bùi Minh Nghĩa

Email: buinghia@ufm.edu.vn

Trường Đại học Tài chính - Marketing

Tóm tắt

TP. Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn của cả nước, nơi các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và tạo việc làm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đang gặp nhiều thách thức trong việc huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh. Bài viết phân tích thực trạng phát triển vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh, cùng những khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng, hạn chế trong huy động vốn từ thị trường chứng khoán, cũng như mức độ hỗ trợ còn hạn chế từ các quỹ đầu tư. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp, như: cải thiện chính sách tín dụng, tăng cường hỗ trợ từ quỹ đầu tư, tối ưu hóa chiến lược sử dụng tài sản cố định và ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu suất hoạt động. Những giải pháp này giúp doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh một cách hiệu quả, góp phần tối ưu hóa nguồn lực và phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn vốn, vốn sản xuất, kinh doanh

Summary

Ho Chi Minh City is a major economic center of the country, where small and medium-sized enterprises play a crucial role in economic development and job creation. However, these enterprises are facing many challenges in mobilizing and improving the efficiency of capital use for production and business. This article analyzes the current situation of capital development for the production and business of small and medium-sized enterprises in Ho Chi Minh City, along with difficulties in accessing capital from banks, limitations in capital mobilization from the stock market, as well as the limited level of support from investment funds. On that basis, the article proposes solutions, such as improving credit policies, increasing support from investment funds, optimizing fixed asset usage strategies, and applying modern technology to improve operational efficiency. These solutions help enterprises mobilize capital for production and business effectively, contributing to optimizing resources and sustainable development in the context of economic integration.

Keywords: Small and medium-sized enterprises, capital sources, capital for the production and business

GIỚI THIỆU

Vốn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh ngày càng gia tăng. Việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn cố định không chỉ ảnh hưởng đến khả năng mở rộng sản xuất, mà còn quyết định năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các DNNVV trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn đế sản xuất, kinh doanh, quản lý và tối ưu hóa tài sản cố định, dẫn đến hiệu suất sử dụng vốn chưa cao. Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu về thực trạng, khó khăn để có các giải pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc, góp phần phát triển và huy động một cách hiệu quả nguồn vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Đây cũng là mục tiêu của nghiên cứu này. Thông qua việc tập trung đánh giá thực trạng phát triển vốn và hiệu quả sử dụng nguồn vốn cố định của các DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011-2023, dựa trên số liệu thống kê và phân tích thực tiễn, nghiên cứu làm rõ xu hướng biến động về quy mô vốn, cơ cấu đầu tư tài sản cố định, cũng như các yếu tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn, tối ưu hóa đầu tư vào tài sản cố định và cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn vốn, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong tương lai.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Vốn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: tổng số vốn tự có (nguồn vốn chủ sở hữu) của doanh nghiệp và các khoản nợ phải trả (các khoản nợ vay và nợ phải trả khác). Vốn sản xuất, kinh doanh bình quân hàng năm của doanh nghiệp được tính bằng bình quân vốn kinh doanh của thời điểm đầu năm và cuối năm.

Vốn cho sản xuất, kinh doanh đóng vai trò cốt lõi trong sự phát triển và khả năng cạnh tranh của DNNVV. Theo Solow (1956), tích lũy vốn giúp nâng cao năng suất lao động và mở rộng quy mô sản xuất, đặc biệt quan trọng đối với DNNVV khi họ thường gặp hạn chế về nguồn lực tài chính. Schumpeter (1934) cũng nhấn mạnh rằng, vốn không chỉ là công cụ tài chính, mà còn thúc đẩy đổi mới, giúp doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, cải thiện quy trình sản xuất và mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, Modigliani và Miller (1958) cho rằng, cấu trúc vốn có ảnh hưởng đến chi phí vốn và quyết định đầu tư. Tuy nhiên, do hạn chế về tài sản thế chấp và uy tín tín dụng, nhiều DNNVV gặp khó khăn trong huy động vốn dài hạn, buộc họ phải dựa vào nguồn vốn tự có hoặc vay ngắn hạn với lãi suất cao. Điều này có thể ảnh hưởng đến chiến lược mở rộng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Beck và cộng sự (2005) cũng chỉ ra rằng, khả năng tiếp cận tài chính là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của DNNVV, nhưng do hạn chế trong quản lý tài chính, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng, dẫn đến việc hạn chế đầu tư vào tài sản cố định và nâng cao hiệu suất hoạt động. Bên cạnh các lý thuyết kinh tế, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng chứng minh tầm quan trọng của vốn đối với sự phát triển của DNNVV. Ayyagari và cộng sự (2007) cho rằng, khả năng tiếp cận tín dụng giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm việc làm và nâng cao hiệu suất hoạt động. Đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển, nguồn vốn từ các tổ chức tài chính vi mô và ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động và tăng trưởng. Báo cáo của UNIDO (2020) cho thấy, DNNVV chiếm hơn 50% tổng số doanh nghiệp trong nhiều ngành công nghiệp và đóng góp đáng kể vào GDP. Tuy nhiên, hạn chế về nguồn vốn và khó khăn trong tiếp cận tín dụng vẫn là rào cản lớn đối với sự phát triển của họ. Báo cáo cũng đề xuất rằng, các chính sách hỗ trợ tài chính, như: tín dụng ưu đãi và quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp có thể giúp DNNVV nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, từ đó mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhìn chung, vốn có vai trò quyết định đối với sự phát triển của DNNVV. Việc tiếp cận nguồn vốn đầy đủ và sử dụng hiệu quả không chỉ giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững. Vì vậy, cần có các chính sách hỗ trợ tài chính phù hợp nhằm giúp DNNVV tối ưu hóa nguồn vốn, đẩy mạnh đầu tư vào tài sản cố định và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Phương pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định tính nhằm thu thập và xử lý dữ liệu, bao gồm việc: nghiên cứu nội dung các báo cáo, tài liệu và số liệu thống kê để nhận diện xu hướng huy động, quản lý và phân bổ vốn trong doanh nghiệp. Dữ liệu thứ cấp được thu thập và tổng hợp, tính toán từ các nguồn công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUY MÔ VỐN SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2011-2023

Trong giai đoạn 2011-2023, vốn sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại TP. Hồ Chí Minh có sự gia tăng liên tục, phản ánh quá trình mở rộng quy mô hoạt động cũng như sự phát triển của nền kinh tế thành phố. Trung bình mỗi năm, tổng vốn sản xuất, kinh doanh tăng khoảng 8,83%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vốn không diễn ra đồng đều trong suốt giai đoạn nghiên cứu. Cụ thể, từ năm 2011 đến 2015, tốc độ tăng trưởng đạt mức 12,61%/năm (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2018), nhưng giai đoạn 2016 - 2023 lại có dấu hiệu chững lại, chỉ còn 5,20%/năm (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2024). Điều này cho thấy, trong giai đoạn đầu, các DNNVV mở rộng hoạt động khá mạnh mẽ nhờ vào sự thuận lợi của thị trường và các chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế bước vào giai đoạn ổn định hơn, cùng với các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát, chính sách tín dụng thắt chặt và những biến động thị trường, tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa dần suy giảm.

Xét theo cơ cấu ngành, vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, với tỷ trọng ngày càng gia tăng. Năm 2011, lĩnh vực dịch vụ chiếm 74,77% tổng vốn sản xuất, kinh doanh, con số này tăng lên 79,85% vào năm 2019 và giữ ở mức 78,9% vào năm 2023 (Bảng). Điều này phản ánh xu hướng phát triển của TP. Hồ Chí Minh theo hướng tăng cường các ngành dịch vụ, phù hợp với đặc điểm của một đô thị lớn, nơi nhu cầu về thương mại, bán lẻ, tài chính, bất động sản và du lịch ngày càng gia tăng. Trong nhóm ngành dịch vụ, đáng chú ý nhất là lĩnh vực kinh doanh bất động sản – nơi thu hút lượng vốn lớn nhất từ các DNNVV. Điều này không chỉ cho thấy tiềm năng sinh lợi cao của bất động sản mà còn phản ánh sự dịch chuyển dòng vốn vào các ngành có khả năng sinh lời nhanh. Bên cạnh đó, lĩnh vực bán buôn - bán lẻ cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu vốn, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng bất động sản.

Trong khi các DNNVV ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng lại có xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong tổng vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV. Cụ thể, năm 2011, các DNNVV ngành này chiếm 24,58% trong năm 2011, nhưng đến năm 2019 giảm xuống còn 19,42% và duy trì ở mức 20,77% vào năm 2023. Trong nhóm này, xây dựng là ngành có lượng vốn lớn nhất, tiếp theo là công nghiệp chế biến, chế tạo. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn đầu tư vào sản xuất công nghiệp có dấu hiệu suy giảm, cho thấy sự thu hẹp dần của các hoạt động sản xuất quy mô nhỏ tại thành phố. Một trong những nguyên nhân có thể đến từ việc chi phí vận hành cao, giá thuê mặt bằng tăng mạnh và sự cạnh tranh gay gắt với các khu vực công nghiệp lân cận, khiến nhiều DNNVV gặp khó khăn trong duy trì hoạt động sản xuất.

Đáng chú ý, ngành nông nghiệp có tỷ trọng vốn sản xuất, kinh doanh thấp nhất và duy trì ở mức dưới 1% trong toàn bộ giai đoạn nghiên cứu. Năm 2011, tỷ trọng vốn ngành này là 0,65%, đến năm 2023 giảm xuống còn 0,33%. Điều này phản ánh thực trạng thu hẹp quy mô hoạt động của lĩnh vực nông nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh – một thành phố có mức độ đô thị hóa cao và quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Hơn nữa, do chi phí đầu tư vào nông nghiệp cao nhưng lợi nhuận không tương xứng, nhiều DNNVV có xu hướng dịch chuyển sang các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ và công nghệ cao, thay vì tập trung vào sản xuất nông nghiệp truyền thống.

Nhìn chung, xu hướng dịch chuyển vốn sản xuất, kinh doanh của DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011-2023 phản ánh quá trình tái cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ. Trong đó, bất động sản và bán buôn - bán lẻ là những lĩnh vực thu hút vốn lớn nhất, trong khi công nghiệp - xây dựng có xu hướng suy giảm và nông nghiệp tiếp tục bị thu hẹp. Xu hướng này phù hợp với sự phát triển của một đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, nơi nhu cầu về dịch vụ tài chính, thương mại và bất động sản ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững, các DNNVV cần có chiến lược phân bổ vốn hợp lý hơn, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong lĩnh vực sản xuất và công nghiệp chế biến, nhằm tránh tình trạng phụ thuộc quá mức vào các ngành dịch vụ dễ bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường. Đồng thời, chính quyền thành phố cần có chính sách hỗ trợ phù hợp để thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn và mở rộng hoạt động trong tương lai.

Bảng: Vốn sản xuất, kinh doanh trong các DNNVV phân theo ngành kinh tế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2023

Năm

Tổng (nghìn tỷ đồng)

Vốn sản xuất, kinh doanh phân theo ngành (nghìn tỷ đồng)

Tỷ trọng vốn sản xuất, kinh doanh /Tổng nguồn vốn sản xuất, kinh doanh (%)

Nông nghiệp

Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

Nông nghiệp

Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

2011

1.919

12,47

471,73

1.434,97

0,65

24,58

74,77

2012

1.962

7,49

500,61

1.454,31

0,38

25,51

74,11

2013

2.425

5,48

583,77

1.836,71

0,23

24,06

75,71

2014

2.397

11,04

664,95

1.721,03

0,46

27,74

71,80

2015

3.086

10,83

894,44

2.811,45

0,29

24,07

75,64

2016

3.718

12,78

727,44

2.978,26

0,34

19,56

80,09

2017

3.171

16,28

644,38

2.510,58

0,51

20,32

79,17

2018

4.775

12,43

834,38

3.928,66

0,26

17,47

82,27

2019

5.658

41,16

1.098,90

4.518,58

0,73

19,42

79,85

2020

5.216

25,16

1.077,53

4.114.19

0,48

20,65

78,86

2021

5.279

25,65

1.210,79

4.043,39

0,49

22,92

76,59

2022

5.035

11,03

1.177.19

3.847,29

0,22

23,38

76,40

2023

5.298

17,30

1.100.57

4.180,89

0,33

20,77

78,90

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Trong giai đoạn 2011-2023, chính quyền TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi về vốn nhằm hỗ trợ DNNVV, thông qua các quyết định, như: Quyết định số 39/2012/QĐ-UBND, ngày 16/7/2012 về việc ban hành Chương trình hỗ trợ vốn cho DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 1270/QĐ-UBND, ngày 10/5/2016 về việc phê duyệt Chương trình tài trợ vốn cho DNNVV giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND, ngày 23/5/2017, về việc ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 702/QĐ-UBND, ngày 25/3/2019 về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2019-2020… Các chính sách này quy định rõ điều kiện, tiêu chí, thủ tục vay vốn; đồng thời, đưa ra mức lãi suất ưu đãi nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của DNNVV.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù có chính sách hỗ trợ, phần lớn DNNVV vẫn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận vốn. Trong khảo sát của Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh tháng 4 (lần 1) và tháng 10 (lần 2) trong năm 2020, thì có hơn 70% doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, nhưng 93% trong số đó gặp trở ngại. Các rào cản chủ yếu gồm: quy trình thủ tục phức tạp (76,57%), thiếu tài sản đảm bảo (65,54%) và dư nợ cao (51,84%) (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2020a). Quy mô doanh nghiệp càng nhỏ, mức độ khó khăn càng lớn, cụ thể: có tới 95,8% doanh nghiệp siêu nhỏ, 90,76% doanh nghiệp nhỏ và 86,68% doanh nghiệp vừa gặp trở ngại trong tiếp cận vốn. Về loại hình, doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp khó khăn cao nhất (93,3%), tiếp theo là doanh nghiệp FDI (87,53%) và doanh nghiệp nhà nước (86,32%). Xét theo ngành, khu vực nông, lâm, thủy sản có tỷ lệ doanh nghiệp khó tiếp cận vốn cao nhất (95,24%), tiếp theo là dịch vụ (93,37%) và công nghiệp - xây dựng (92,07%). Một số ngành quan trọng, như: vận tải hàng không, dịch vụ ăn uống và sản xuất đồ uống, ghi nhận tỷ lệ gặp khó khăn trên 95% (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2020b).

Từ các số liệu trên, có thể thấy mặc dù chính quyền TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ tài chính, nhưng doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, vẫn gặp nhiều trở ngại trong tiếp cận vốn. Điều này phản ánh thực tế rằng, bên cạnh các chính sách ưu đãi, cần có giải pháp thiết thực hơn để cải thiện khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp, như đơn giản hóa thủ tục, đa dạng hóa nguồn vốn và hỗ trợ tài sản đảm bảo.

KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ

Mặc dù nguồn vốn của các DNNVV trong thời gian qua đã đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Thành phố, tuy nhiên, các DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh vẫn gặp nhiều thách thức trong việc huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh, cụ thể như sau:

Thứ nhất, rào cản lớn nhất mà các DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh phải đối mặt là việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng. Các tổ chức tín dụng thường yêu cầu doanh nghiệp cung cấp tài sản thế chấp hoặc chứng minh dòng tiền ổn định để đảm bảo khả năng trả nợ. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ, nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được hệ thống tài chính minh bạch và chưa có báo cáo tài chính rõ ràng, dẫn đến việc bị từ chối cấp vốn. Ngoài ra, thủ tục vay vốn tại các ngân hàng thường phức tạp và mất nhiều thời gian, khiến các DNNVV khó có thể tiếp cận nguồn vốn kịp thời để duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, DNNVV thường phải chịu mức lãi suất cao hơn so với các doanh nghiệp lớn khi vay vốn từ ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng. Nguyên nhân chủ yếu là do các ngân hàng đánh giá DNNVV có mức độ rủi ro cao hơn, khả năng thanh khoản thấp hơn và ít tài sản thế chấp hơn. Ngoài lãi suất, doanh nghiệp còn phải chịu nhiều chi phí khác, như: phí thẩm định hồ sơ, phí bảo lãnh tín dụng hoặc các khoản chi phí hành chính khác, làm tăng tổng chi phí vốn. Điều này tạo ra áp lực lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh và lợi nhuận của khu vực này.

Thứ ba, dù Chính phủ và các cơ quan quản lý đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ tài chính cho DNNVV, nhưng việc tiếp cận các gói hỗ trợ này vẫn gặp nhiều khó khăn. Một số doanh nghiệp không đủ điều kiện để hưởng các ưu đãi về thuế hoặc lãi suất vay do không đáp ứng được các tiêu chí đặt ra. Hơn nữa, quy trình xét duyệt hồ sơ còn phức tạp và mất nhiều thời gian, khiến nhiều doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn khi cần thiết.

Thứ tư, thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn hiệu quả, nhưng hầu hết các DNNVV đều chưa đủ điều kiện để niêm yết trên sàn giao dịch. Việc lên sàn đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô đủ lớn, hệ thống tài chính minh bạch và khả năng quản trị tốt, trong khi nhiều DNNVV chưa đáp ứng được các tiêu chí này. Ngoài ra, tâm lý e ngại thủ tục pháp lý phức tạp và chi phí niêm yết cao cũng là rào cản khiến nhiều doanh nghiệp chưa thể tiếp cận kênh huy động vốn quan trọng này.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Như vậy có thể thấy, việc tiếp cận và duy động vốn cho sản xuất, kinh doanh của DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh còn gặp nhiều thách thức, ảnh hưởng đến mở rộng sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Để đảm bảo tăng trưởng bền vững, cần có chính sách tài chính phù hợp, giúp doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả và duy trì ổn định trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Một số giải pháp có thể xem xem như sau:

Một là, cải thiện khả năng tiếp cận vốn ngân hàng. DNNVV cần nâng cao tính minh bạch tài chính bằng cách xây dựng hệ thống kế toán chuyên nghiệp, báo cáo tài chính đầy đủ và kiểm toán định kỳ. Việc ứng dụng phần mềm kế toán hiện đại giúp doanh nghiệp kiểm soát dòng tiền và tăng độ tin cậy với ngân hàng. Ngược lại, các tổ chức tín dụng nên đánh giá tín dụng linh hoạt hơn, không chỉ dựa vào tài sản thế chấp, mà còn xét đến hiệu quả kinh doanh để tạo điều kiện vay vốn tốt hơn.

Hai là, giảm chi phí vay vốn. Chi phí vay cao cản trở mở rộng sản xuất và tăng lợi nhuận. Chính phủ có thể triển khai quỹ bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn ưu đãi. Ngân hàng nên áp dụng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dòng tiền và lịch sử giao dịch, thay vì chỉ dựa vào tài sản thế chấp. Đồng thời, DNNVV nên tìm kiếm nguồn vốn từ quỹ đầu tư, tài chính vi mô hoặc tổ chức quốc tế để giảm phụ thuộc vào ngân hàng.

Ba là, nâng cao khả năng tiếp cận gói hỗ trợ tài chính. Mặc dù Chính phủ triển khai nhiều chính sách hỗ trợ, thủ tục rườm rà khiến doanh nghiệp khó tiếp cận. Cần đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xét duyệt và minh bạch thông tin về các gói vay ưu đãi. DNNVV cũng cần chủ động nâng cao năng lực quản lý, hoàn thiện hồ sơ tài chính để đáp ứng điều kiện hỗ trợ. Ngoài ra, các chương trình đào tạo, tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng chính sách ưu đãi tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Bốn là, thúc đẩy huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Niêm yết giúp DNNVV tiếp cận vốn dài hạn với chi phí hợp lý, nhưng nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều kiện. Chính phủ có thể xem xét thành lập sàn giao dịch riêng với tiêu chí đơn giản hơn. DNNVV cần chuẩn hóa quản trị tài chính, đảm bảo minh bạch và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Các tổ chức tư vấn tài chính cũng nên hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường này hiệu quả hơn.

Tóm lại, bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận vốn, giảm chi phí vay, mở rộng kênh huy động vốn và nâng cao hiệu quả các chương trình hỗ trợ tài chính, các DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thu hút, huy động và tăng vốn cho sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và giúp DNNVV thích ứng tốt hơn với những biến động của nền kinh tế./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ayyagari, M., Beck, T., and Demirgüç-Kunt, A. (2007), Small and Medium Enterprises Across the Globe, The World Bank.

2. Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., and Maksimovic, V. (2005), Financial and Legal Constraints to Growth: Does Firm Size Matter?, The Journal of Finance, 60(1), 137-177.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2024, Nxb Thống kê.

4. Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh (2020a), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá tác động của dịch Covid-19 lần 1 đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

5. Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh (2020b), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá tác động của dịch Covid-19 lần 2 đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

6. Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh (2018), Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2016, truy cập từ http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?uuid=2e0ad153-5b11-4998-b8c0-9f494bfdc110&groupId=18.

7. Modigliani, F., and Miller, M. H. (1958), The Cost of Capital, Corporation Finance, and the Theory of Investment, American Economic Review, 48(3), 261-297.

8. Schumpeter, J. A. (1934), The Theory of Economic Development, Harvard University Press.

9. Solow, R. M. (1956), A Contribution to the Theory of Economic Growth, Quarterly Journal of Economics, 70(1), 65-94.

10. UNIDO (2020), Industrial Development Report: The Role of Small and Medium Enterprises in Industrialization, United Nations Industrial Development Organization.

Ngày nhận bài: 03/3/2025; Ngày phản biện: 10/3/2025; Ngày duyệt đăng: 14/3/2025

Bạn đang đọc bài viết "Thực trạng phát triển vốn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh" tại chuyên mục Diễn đàn khoa học. Tin bài cộng tác vui lòng gửi về email Banbientap@kinhtevadulich.vn hoặc liên hệ hotline 0917501400.