Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer

14/03/2025 21:00

Bài viết nhằm hệ thống hóa các nội dung đã và đang được nghiên cứu về chủ đề mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh trên cơ sở sử dụng nguồn dữ liệu Web of Science (WoS)

Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Hiền

Email:nthien@sgu.edu.vn

Trường Đại học Sài Gòn

Trần Thế Nam

Email:tranthenam@ufm.edu.vn

Trường Đại học Tài chính - Marketing

Nguyễn Phương Anh

Email: anhnp71@fe.edu.vn

Trường Cao đẳng FPT Polytechnic

Tóm tắt

Bài viết nhằm hệ thống hóa các nội dung đã và đang được nghiên cứu về chủ đề mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh. Nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu Web of Science (WoS) từ năm 2014 đến tháng 08/2024 với 927 tài liệu về kinh tế xanh và kinh tế số để phân tích trắc lượng thư mục, với sự hỗ trợ của phần mềm VOSviewer kết hợp với phần mềm MS Excel. Kết quả phân tích được tổng hợp qua các bảng số liệu và trực quan bằng hình ảnh. Với việc sử dụng nguồn dữ liệu từ WoS, nghiên cứu có thể coi là tiền đề nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo bổ sung thêm dữ liệu từ các nguồn khác để gia tăng tính khách quan và lấp đầy khoảng trống nghiên cứu về vấn đề này.

Từ khóa: phân tích trắc lượng thư mục, kinh tế số, kinh tế xanh, VOS Viewer

Summary

The article aims to systematize the content that has been and is being researched on the relationship between the digital economy and the green economy. The study uses the Web of Science (WoS) data source from 2014 to August 2024 with 927 documents on green economy and digital economy for bibliometric analysis, with the support of VOSviewer software combined with MS Excel software. The analysis results are synthesized through data tables and visual images. Using data sources from WoS, the study can be considered a foundation for subsequent studies to supplement data from other sources to increase objectivity and fill research gaps on this issue.

Keywords: bibliometric analysis, digital economy, green economy, VOS Viewer

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong kỷ nguyên công nghệ 4.0 ngày nay, phát triển kinh tế số, dùng mô hình chuyển đổi số hóa để thúc đẩy phát triển kinh tế chất lượng cao là một xu thế tất yếu đang diễn ra trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, kinh tế xanh, tăng trưởng xanh là cam kết vừa gia tăng giá trị kinh tế, vừa bảo vệ môi trường, đồng thời vẫn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần phát triển bền vững cho quốc gia. Phát triển kinh tế số song hành cùng kinh tế xanh là một vấn đề hiện đang được nhiều học giả, các nhà kinh tế, cũng như chính phủ các nước quan tâm, thể hiện qua các bài nghiên cứu đa chiều về nội dung này trong vòng 10 năm trở lại đây.

Thực trạng hiện nay cho thấy, kinh tế số và kinh tế xanh hiện nay là 2 phương thức phát triển chủ đạo mang tính hiện đại của các nền kinh tế. Nếu muốn tăng trưởng nhanh nhưng vẫn bền vững, thì giải pháp phù hợp nhất chính là ưu tiên phát triển kinh tế số để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh (Kong và Li, 2022). Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân cả về phía chủ quan và khách quan. Do đó, một câu hỏi quan trọng cần đặt ra là liệu nền kinh tế số, với tư cách là một động lực mới, một hướng phát triển mới có thể tập trung vào các yêu cầu hiện tại về phát triển bền vững và có tác động đáng kể đến hiệu quả kinh tế xanh của các quốc gia hay không (Mbanyele và Liao, 2023). Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ của kinh tế số và kinh tế xanh là một vấn đề đa chiều, với nhiều khía cạnh phức tạp và là chủ đề có tầm quan trọng cấp thiết đang được các học giả hết sức quan tâm trong thời gian gần đây. Bài viết sử dụng phần mềm VOS Viewer để thực hiện phương pháp trắc lượng thư mục nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về những nội dung nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa kinh tế xanh và kinh tế số dựa trên nguồn dữ liệu Web of Science (WoS) được thống kê từ năm 2014 đến tháng 8/2024. Từ đó, tình hình nghiên cứu hiện tại đã và đang được thực hiện của lĩnh vực này sẽ được đề cập tới và thể hiện qua các bảng, biểu và hình ảnh trực quan.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Kỷ nguyên công nghệ 4.0 đã tạo ra những sự thay đổi mạnh mẽ trên toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại không ít thách thức cho các quốc gia trong việc tiếp cận và thực hiện công cuộc chuyển đổi số. Từ đó, khái niệm “kinh tế số” ra đời đề cập tới sự chuyển đổi của các hoạt động kinh tế truyền thống sang mô hình kinh tế dựa trên công nghệ số, trong đó, dữ liệu và thông tin kinh doanh được sử dụng để tạo ra lợi ích và tăng cường hiệu suất (Williams, 2021). Trong suốt 2 thập kỷ qua, trên thế giới, nền kinh tế số đã có sự tăng trưởng đáng kể, bao trùm và có ảnh hưởng sâu rộng lên tất cả các lĩnh vực, như: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, logistic... Hơn nữa, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vừa qua, kinh tế số nổi lên như một động lực mới cho sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh và tạo điều kiện cho việc khôi phục lại các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giáo dục…Trái ngược với nền kinh tế truyền thống trước đây vốn dựa vào không gian vật lý, nền kinh tế số tận dụng lợi thế của mạng Internet và hệ thống dữ liệu. Đây là một hình thức kinh tế và xã hội mới, nền kinh tế số công nhận dữ liệu là một yếu tố sản xuất mới bên cạnh vốn, lao động và đất đai (Oloyede và cộng sự, 2023). Cơ sở dữ liệu và hệ thống hạ tầng mạng hiện đại sẽ mang lại những lợi ích, như: dễ dàng truy cập thông tin bằng nhiều phương thức tương tác khác nhau, từ đó, giảm thiểu chi phí đáng kể cho doanh nghiệp.

Bên cạnh kinh tế số, khái niệm “kinh tế xanh” đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và trở thành vấn đề đang và sẽ tiếp tục được quan tâm nghiên cứu trong nhiều thập niên tới. Bởi lẽ, phát triển kinh tế xanh thể hiện một cách tiếp cận tăng trưởng kinh tế ưu tiên hiệu quả, sự hài hòa và tính bền vững. Nguyên tắc cơ bản của kinh tế xanh nằm ở việc đạt được sự thống nhất nội tại, củng cố lẫn nhau và sự cùng tồn tại hài hòa của phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội (Zhang và cộng sự, 2022). Ý tưởng của kinh tế xanh là cam kết vừa gia tăng giá trị kinh tế, vừa bảo vệ môi trường, đồng thời vẫn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Phương pháp nghiên cứu

Nguồn dữ liệu và phương án tìm kiếm

Phương pháp trắc lượng thư mục là một phương pháp nhằm thống kê, phân tích thông tin cơ bản của tài liệu, như: tác giả, từ khóa và tài liệu tham khảo để truyền đạt cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của một chủ đề nghiên cứu (Leung và cộng sự, 2017). Thông qua phần mềm VOS Viewer, việc phân tích trắc lượng thư mục được nhóm tác giả thực hiện bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu WoS kể từ năm 2014 đến tháng 8/2024, do trước năm 2014, chưa có sự xuất hiện của các bài viết nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế xanh và kinh tế số.

Trước tiên, để thu thập dữ liệu, nhóm tác giả sử dụng công cụ tìm kiếm của cơ sở dữ liệu WoS, tập trung tìm kiếm các ấn phẩm có 2 cụm từ là: “kinh tế số” và “kinh tế xanh” được xuất hiện trong tiêu đề, tóm tắt và từ khóa của bài báo. “Digital economy” và “green economy” là 2 cụm từ bằng tiếng Anh được sử dụng để tìm kiếm các bài báo liên quan đã xuất bản bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Việc trích xuất dữ liệu được thực hiện trước ngày 30/08/2024, bước đầu, tổng cộng có 1,271 tài liệu được tìm thấy. Từ các tài liệu tìm được, nhóm tác giả tiến hành lựa chọn các tài liệu phù hợp với mục đích nghiên cứu. Bước thứ nhất là giới hạn loại tài liệu, chỉ chọn các bài báo, chương sách, bài hội nghị. Bước thứ hai là chỉ lựa chọn các tài liệu tiếng Anh và giới hạn lại các lĩnh vực nghiên cứu liên quan gần, lược bỏ bớt một số tài liệu thuộc các lĩnh vực nghiên cứu chưa thật sự phù hợp. Sau quá trình lọc dữ liệu, tổng cộng 927 tài liệu hợp lệ được sử dụng để tiến hành phân tích.

Khai thác thông tin

Hình 1 trình bày sơ đồ tìm kiếm của nhóm tác giả. Trong nghiên cứu này, tất cả các tài liệu đã được phân tích trắc lượng thư mục. Tác giả sử dụng các công cụ sau: (i) Microsoft Excel 2019 để tính toán tần suất và tỷ lệ phần trăm của các tài liệu đã xuất bản và để tạo các biểu đồ và đồ thị có liên quan; (ii) VOSviewer (phiên bản 1.6.19) để tạo và trực quan hóa các mạng thư mục.

Hình 1: Sơ đồ tìm kiếm dữ liệu khi thực hiện nghiên cứu

Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Phân tích mô tả tài liệu truy xuất

Kết quả tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu WoS cho thấy, các ấn phẩm liên quan về kinh tế số và kinh tế xanh bắt đầu được nghiên cứu từ năm 2014. Điều này cũng khá phù hợp với tiến trình phát triển và sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào năm 2013. Tuy nhiên, số lượng bài nghiên cứu trong 5 năm đầu tiên từ năm 2014 đến 2019 là khá khiêm tốn (dưới 10 nghiên cứu, thậm chí năm 2016 không có nghiên cứu nào được ghi nhận), sau đó tăng dần lên vào các năm tiếp theo là năm 2020 (với 12 bài) và năm 2021 (với 52 bài). Từ năm 2022 trở đi, số lượng các bài nghiên cứu về chủ đề này tăng nhanh gấp gần 2 lần qua các năm. Do số liệu được cập nhật lần cuối vào ngày 30/8/2024, nên số liệu về các ấn phẩm nghiên cứu trong năm 2024 vẫn chưa được thống kê đầy đủ. Từ đó cho thấy, chủ đề nghiên cứu về mối quan hệ của kinh tế số và kinh tế xanh là một nội dung còn khá mới mẻ, đang được giới chuyên môn dành cho một sự quan tâm đáng kể. Nhất là trong bối cảnh xã hội có nhiều sự thay đổi về thói quen của người tiêu dùng sau đại dịch Covid-19, cùng với sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big data) và Internet kết nối vạn vật (IoT) (Hình 2).

Hình 2: Biểu đồ số lượng bài nghiên cứu từ năm 2014-2024

Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer

Nguồn: Kết quả phân tích từ dữ liệu WoS

Hiện nay, các tài liệu được sử dụng trong thống kê được xuất bản trên các tạp chí chuyên ngành và đăng trên kỷ yếu của các hội thảo quốc tế về các lĩnh vực có liên quan. Các bài báo này chủ yếu đến từ các lĩnh vực nghiên cứu bao gồm: Khoa học Môi trường, Khoa học kỹ thuật Phát triển bền vững, Kinh doanh, Kinh tế, Quản lý và các lĩnh vực khác. Trong đó, 3 tạp chí có số lượng bài liên quan đến chủ đề nhiều nhất là: Sustainability (với 149 bài), tiếp theo là Environmental science and Pollution Research (với 81 bài) và Journal of cleaner production (với 44 bài). Bảng dưới đây mô tả số lượng bài viết trên tạp chí xuất bản, thể hiện danh sách các tạp chí có trên 20 bài viết liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu.

Bảng: Danh sách tạp chí đăng tải trên 20 bài viết liên quan đến chủ đề mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh từ năm 2014-2024

Tạp chí

Số lượng bài viết

Tỷ lệ % (trên tổng số 927 tài liệu)

Sustainability

149

16,073 %

Environmental science and pollution research

81

8,738 %

Journal of cleaner production

44

4,746 %

Frontiers in environmental science

41

4,423 %

Resources policy

37

3,991 %

International journal of environmental research and public health

28

3,020 %

Energy economics

22

2,373 %

Journal of environmental management

22

2,373 %

PLOS one

22

2,373 %

Nguồn: Kết quả phân tích từ dữ liệu WoS

Dựa trên kết quả phân tích quốc gia ghi danh của các tác giả cho thấy, số lượng bài nghiên cứu về chủ đề này khá đa dạng về mặt quốc gia, điều này thể hiện tính thực tiễn của chủ đề này đã được quan tâm bởi nhiều tác giả ở các quốc gia khác nhau. Trong đó, Trung Quốc (với 683 bài) là quốc gia có nhiều ấn phẩm nhất về chủ đề này, kế tiếp là Anh (với 44 bài viết), Mỹ (với 37 bài), Ý (34 bài), Pakistan (31 bài). Các quốc gia còn lại có số lượng bài nghiên cứu từ 30 bài trở xuống. Hiện nay, lĩnh vực nghiên cứu này còn khá mới đối với Việt Nam, cụ thể, thống kê số lượng ấn phẩm theo quốc gia ghi danh của tác giả là Việt Nam chỉ có 9 ấn phẩm. Điều này gợi ý một khía cạnh khai thác mới cho các nhà nghiên cứu đến từ Việt Nam trong tương lai. Hình 3 mô tả số liệu đại diện của 10 quốc gia có số lượng bài nghiên cứu nhiều nhất về chủ đề mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh từ năm 2014 đến 2024.

Hình 3: Top 10 quốc gia có số lượng bài nghiên cứu về chủ đề mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh từ năm 2014-2024

Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer

Nguồn: Kết quả phân tích từ dữ liệu WoS

Phân tích ghép nối thư mục (bibliographic coupling)

Trong số các kỹ thuật chính của phương pháp phân tích trắc lượng thư mục, nhón tác giả đã sử dụng hình thức phân tích ghép nối thư mục (bibliographic coupling) trong nghiên cứu này. Phân tích ghép nối thư mục đã được chứng minh là một phương pháp thích hợp để xác định các chủ đề nghiên cứu tiềm năng (Boyack và Klavans, 2010; Castillo-Vergara và cộng sự, 2018).

Hình 4: Bản đồ mạng ghép nối thư mục về chủ đề mối quan hệ của kinh tế số và kinh tế xanh từ năm 2014-2024

Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer

Nguồn: Kết quả phân tích từ dữ liệu WoS bằng VOSviewer

Dựa trên bản đồ mạng ghép nối thư mục được tạo ra (Hình 4), nhóm tác giả đã đọc tóm tắt của tất cả các bài viết trong mỗi cụm để xác định các điểm chung của chúng, sau đó đặt tên cho các cụm được hình thành. Theo Zhao và Strotmann (2008), việc đặt tên này mang tính chủ quan, tùy theo nhận thức và mục đích của nhà nghiên cứu, chủ yếu là dựa trên sự thống nhất của việc phân cụm trong đánh giá. Dựa trên quy tắc này, nhóm tác giả đặt tên riêng cho từng cụm, cụ thể như sau:

- Cụm 1 (màu đỏ), là cụm lớn nhất với 241 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Ảnh hưởng của các yếu tố cốt lõi về kỹ thuật số trong Cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động của chúng tới việc phát triển nền kinh tế xanh”. Cụm này tập trung khai thác các chủ đề về: trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và ảnh hưởng của chúng như thế nào trong hoạt động chuyển đổi số của cách doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung. Từ đó, tiếp tục phát triển các nghiên cứu chung về ảnh hưởng của chuyển đổi số đến đổi mới xanh trong nền kinh tế; mối quan hệ giữa chuyển đổi số của doanh nghiệp và hiệu suất đổi mới của nền công nghiệp xanh; vai trò của pháp luật và sự quản lý của Nhà nước trong định hướng phát triển mô hình tích hợp kinh tế số và kinh tế xanh.

- Cụm 2 (màu xanh lá cây), với 154 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Ảnh hưởng của công nghệ tài chính (Fintech) tới hiệu quả của nền kinh tế xanh”. Các nghiên cứu trong cụm này tập trung làm rõ các vấn đề, như: vai trò của công nghệ tài chính (Fintech) trong việc thúc đẩy các hoạt động tài chính xanh; các lĩnh vực ứng dụng của tài chính số trong nền kinh tế xanh; nghiên cứu một số ứng dụng tiêu biểu của công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực tài chính xanh trên thế giới; phân tích các động tích cực của việc ứng dụng công nghệ trong việc chuyển đổi số lĩnh vực tài chính và phát triển tài chính toàn diện bền vững trên toàn cầu; nghiên cứu các giải pháp để thúc đẩy phát triển công nghệ xanh trong lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech).

- Cụm 3 (màu xanh dương đậm), với 101 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Sự song hành của kinh tế số và kinh tế xanh”. Các bài viết trong cụm này chủ yếu nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển song hành của kinh tế số và kinh tế xanh; các phương pháp phát triển kinh tế số lồng ghép với kinh tế xanh hiệu quả thông qua bài học thực nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới; các giải pháp được đề xuất nhằm thực hiện sự song hành của kinh tế số và kinh tế xanh, bảo đảm mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong tương lai của kinh tế thế giới.

- Cụm 4 (màu vàng), với 100 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Kinh tế số và vấn đề tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường”. Các bài viết trong cụm này chủ yếu liên quan tới nội dung công nghệ số giúp tiết kiệm năng lượng, hướng đến hạ tầng xanh bền vững; mô hình hóa ảnh hưởng của kinh tế số tới ô nhiễm môi trường đô thị; nền kinh tế số cải thiện hiệu quả sinh thái; xây dựng cơ sở hạ tầng số thúc đẩy kinh tế xanh; tác động của chính sách phát triển kinh tế số tới sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và hướng đến phát triển bền vững.

- Cụm 5 (màu tím), với 73 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Tối ưu hóa cơ cấu công nghiệp và Đổi mới xanh”. Các bài viết trong chủ đề này liên quan đến tác động của số hóa doanh nghiệp đến hiệu suất đổi mới xanh; chuyển đổi số thúc đẩy tốc độ tăng năng suất của các nhân tố tổng hợp xanh; phát triển kinh tế số thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh và nâng cấp các ngành sản xuất.

- Cụm 6 (màu xanh dương nhạt), với 42 bài nghiên cứu, có thể được đặt tên là “Xu hướng số hóa và tương lai phát triển bền vững”. Các bài nghiên cứu trong chủ đề này tập trung vào việc làm rõ vai trò của số hóa trong sự phát triển của nền kinh tế xanh; đánh giá tác động của nền kinh tế số tới hiệu quả của phát triển xanh; nghiên cứu các chiến lược và kế hoạch cụ thể từ trường hợp của một số quốc gia trên thế giới nhằm thúc đẩy kinh tế số trong sự phát triển hài hòa, bền vững của kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.

Thảo luận kết quả nghiên cứu

Kết quả phân tích mô tả dựa vào kết quả phân tích từ dữ liệu WoS (tính đến tháng 08/2024), kết quả phân tích trắc lượng thư mục và hệ thống các tài liệu có liên quan của tác giả cho thấy, đây là một hướng nghiên cứu quan trọng, đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, minh chứng là sự gia tăng nhanh về số lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này kể từ năm 2021 và liên tục tăng ở các năm tiếp theo (Hình 2). Các nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế số và kinh tế xanh hiện đang tập trung chủ yếu ở các tác giả Trung Quốc và nghiên cứu cho trường hợp cụ thể ở các tỉnh thành của quốc gia này. Đây là một điều dễ hiểu, bởi lẽ nhờ quá trình chuyển đổi số nhanh chóng, Trung Quốc hiện đã trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế số phát triển hàng đầu thế giới với những thành tựu nổi bật trong thời gian qua. Bên cạnh đó, Chính phủ nước này cũng hỗ trợ tài chính cho rất nhiều nghiên cứu để gia tăng hiệu quả của việc phát triển kinh tế số song hành với kinh tế xanh. Mới đây, Trung Quốc đã công bố một hướng dẫn nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đây là lần đầu tiên, nền kinh tế này triển khai những mục tiêu xanh và carbon thấp một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về đề tài mối quan hệ của kinh tế số và kinh tế xanh nói chung hiện vẫn là một hướng nghiên cứu chưa được khai thác nhiều tại Việt Nam và nên được tiếp tục khám phá trong tương lai. Bởi lẽ, Việt Nam là một quốc gia có các yếu tố môi trường vĩ mô đặc trưng, nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia khác trên thế giới như về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật, tự nhiên... Vì vậy, các nghiên cứu về trường hợp của các quốc gia khác có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo chứ không thể áp dụng hoàn toàn những kết quả nghiên cứu này vào thị trường Việt Nam. Do đó, tiếp tục nghiên cứu về lĩnh vực phát triển kinh tế số và kinh tế xanh ở Việt Nam là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Bằng phương pháp trắc lượng thư mục, bài viết đã hệ thống hóa các nội dung được nghiên cứu trong thời gian từ năm 2014 đến 2024 về mối quan hệ của kinh tế số và kinh tế xanh thể hiện trong các bảng, hình và phân tích. Đây có thể coi là một cơ sở cho các học giả có cái nhìn tổng quát về những nghiên cứu đã được thực hiện trong thời gian qua, cũng như xác định được xu hướng trong tương lai về chủ đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử dụng nguồn dữ liệu từ WoS và giới hạn thời gian tới tháng 08/2024, nên kết quả phân tích có thể chưa bao quát được toàn bộ các nghiên cứu đã xuất bản. Vì vậy, những nghiên cứu tiếp theo có thể bổ sung thêm dữ liệu từ các nguồn khác để gia tăng tính khách quan của kết quả nghiên cứu, cũng như lấp đầy khoảng trống nghiên cứu về chủ đề này./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Boyack, K. W., and Klavans, R. (2010), Co‐citation analysis, bibliographic coupling, and direct citation: Which citation approach represents the research front most accurately? Journal of the American Society for Information Science and Technology, 61(12), 2389-2404, doi:10.1002/asi.21419.

2. Castillo-Vergara, M., Alvarez-Marin, A., and Placencio-Hidalgo, D. (2018), A bibliometric analysis of creativity in the field of business economics, Journal of Business Research, 85, 1-9, doi:10.1016/j.jbusres.2017.12.011.

3. Kong, L., and Li, J. (2022), Digital Economy Development and Green Economic Efficiency: Evidence from Province-Level Empirical Data in China, Sustainability, 15(1). doi:10.3390/su15010003.

4. Leung, X. Y., Sun, J., and Bai, B. (2017), Bibliometrics of social media research: A co-citation and co-word analysis, International Journal of Hospitality Management, 66, 35-45. doi:10.1016/j.ijhm.2017.06.012.

5. Mbanyele, W., and Liao, W. (2023), How does the digital economy affect the development of the green economy? Evidence from Chinese cities, Plos One, 18(8). doi:10.1371/journal.pone.0289826.

6. Oloyede, A. A., Faruk, N., Noma, N., Tebepah, E., and Nwaulune, A. K. (2023), Measuring the impact of the digital economy in developing countries: A systematic review and meta- analysis, Heliyon, 9(7), e17654, doi:10.1016/j.heliyon.2023.e17654.

7. Williams, L. D. (2021), Concepts of Digital Economy and Industry 4.0 in Intelligent and information systems, International Journal of Intelligent Networks, 2, 122-129. doi:10.1016/j.ijin.2021.09.002.

8. Zhang, Z., Fu, W. K., and Ma, L. (2022), The impact of digital economy on green development in China, Frontiers in Environmental Science, 10, doi:10.3389/fenvs.2022.991278.

9. Zhao, D., and Strotmann, A. (2008), Evolution of research activities and intellectual influences in information science 1996–2005: Introducing author bibliographic‐coupling analysis, Journal of the American Society for Information Science and Technology, 59(13), 2070-2086, doi:10.1002/asi.20910.

Ngày nhận bài: 06/3/2025; Ngày phản biện: 11/3/2025; Ngày duyệt đăng: 14/3/2025

Bạn đang đọc bài viết "Nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ giữa kinh tế số và kinh tế xanh qua phân tích trắc lượng thư mục bằng VOS Viewer" tại chuyên mục Diễn đàn khoa học. Tin bài cộng tác vui lòng gửi về email Banbientap@kinhtevadulich.vn hoặc liên hệ hotline 0917501400.