Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông

18/03/2025 00:13

Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Nông nhằm giúp tỉnh đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

Phí Thị Hồng Linh

Khoa Kế hoạch và Phát triển - Trường Kinh tế và quản lý công – Đại học Kinh tế Quốc dân

Nguyễn Đình Hưng

Ban Kế hoạch Tài chính – Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh

Ngô Quốc Dũng

Khoa Kế hoạch và Phát triển - trường Kinh tế và quản lý công – Đại học Kinh tế Quốc dân

Đinh Hoàng Huy

Ban Kế hoạch Tài chính – Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguyễn Thu Hà

Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm đo lường đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Nông thông qua phương pháp hạch toán tăng trưởng dựa trên hàm sản xuất Cobb - Douglass. Kết quả cho thấy đóng góp của TFP trong tăng trưởng của tỉnh còn khá hạn chế, do cơ cấu kinh tế của tỉnh còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, cơ cấu vốn chủ yếu là vốn trong nước, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa phát triển mạnh, môi trường đầu tư và thể chế còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhằm giúp tỉnh đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

Từ khóa: tăng trưởng kinh tế, nhân tố năng suất tổng hợp, Đắk Nông

Abstract:

The study aims to measure the contribution of total factor productivity (TFP) to the economic growth of Dak Nong province through the growth accounting method based on the Cobb - Douglass production function. The results show that the contribution of TFP to Dak Nong’economic growth is still quite limited, due to the backward economic structure of the province, the low quality of human resources, the capital structure is mainly domestic capital, science and technology and innovation have not developed strongly, the investment environment and institutions are still limited. Base on these findings, the study has suggested several solutions to increase the contribution of TFP to Dak Nong's economic growth to help the province achieve the goal of rapid and sustainable development in the coming years.

Keywords: economic growth, total factor productivity, Dak Nong

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhận thức được tầm quan trọng của việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ dựa vào khai thác tài nguyên và lao động sang dựa trên nâng cao năng suất và chất lượng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra các định hướng chiến lược quan trọng. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đến Đại hội XIII, mô hình tăng trưởng đã được xác định theo hướng kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và chiều sâu.

Nghị quyết Đại hội XIII đặt mục tiêu đưa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm, với đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%, đồng thời nhấn mạnh vai trò của KH&CN và đổi mới sáng tạo trong nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Mới đây nhất, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đưa ra mục tiêu “Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%”.

Trong bối cảnh đó, Đắk Nông - một trong năm tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, sở hữu nhiều tiềm năng phát triển kinh tế dựa trên tài nguyên thiên nhiên, đa dạng văn hóa - dân tộc và vị trí chiến lược về chính trị, an ninh quốc phòng cũng phải phấn đấu đóng góp vào mục tiêu chung này của cả nước. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu về TFP của tỉnh giai đoạn 2011-2023, mặc dù có sự cải thiện nhưng đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế của Đắk Nông vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tăng trưởng của địa phương.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp chiến lược để nâng cao vai trò của TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Nông thời gian tới, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Khái niệm TFP

TFP, hay còn được gọi là phần dư Solow, được đưa ra lần đầu tiên bởi Robert Merton Solow - một học giả kinh tế người Mỹ, trong nghiên cứu về lý thuyết tăng trưởng kinh tế (năm 1956). Solow (1956) cho rằng yếu tố thay đổi công nghệ không bao hàm lượng vốn và lao động đầu vào nên mô hình tăng trưởng có dạng Y = AF(K, L). Tiếp đó, các nghiên cứu của Solow (1957) đã đề xuất phương pháp hạch toán tăng trưởng để đo lường tốc độ tiến bộ công nghệ, còn gọi là phần dư Solow hay tăng trưởng năng suất tổng hợp (TFP). TFP được định nghĩa là chênh lệch giữa tăng trưởng sản lượng và tốc độ tăng trưởng của các đầu vào như vốn và lao động, hay nói cách khác, TFP là phần sản lượng tăng thêm khi lượng vốn và lao động đầu vào không đổi.

Trần Văn Thọ (2017) cho rằng, phần còn lại (trong kết quả sản xuất tăng lên sau khi loại trừ phần đóng góp do yếu tố đầu tư thêm về lao động nhân công, tư bản, tài nguyên...) là hiệu quả tổng hợp không giải thích được bằng sự gia tăng của các yếu tố sản xuất và được xem là kết quả của các yếu tố liên quan đến hiệu suất. Nền kinh tế phát triển càng hiệu suất thì phần còn lại này càng lớn. Trong phương pháp tính toán về sự tăng trưởng, phần còn lại này được gọi là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) sử dụng thuật ngữ “Năng suất đa yếu tố” (MFP - Multi factor productivity) để chỉ khái niệm tương đương TFP “Năng suất đa yếu tố” (MFP) liên quan đến sự thay đổi về đầu ra bởi một số loại đầu vào. MFP được đo lường thông qua sự thay đổi về đầu ra mà không thể tính được thông qua thay đổi của đầu vào phối hợp. MFP thể hiện hiệu quả kết hợp của nhiều yếu tố bao gồm công nghệ, quy mô sản xuất, kỹ năng quản lý, thay đổi trong tổ chức sản xuất.

Tăng Văn Khiên (2005), cho rằng: TFP suy cho cùng là kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), nhờ tác động của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân... (gọi chung là các nhân tố tổng hợp - các nhân tố về trình độ công nghệ tiềm ẩn trong các yếu tố cơ bản là vốn và lao động.

Trong "Báo cáo nghiên cứu chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007" (2009) của Trung tâm Năng suất Việt Nam, thì TFP là phản ánh sự đóng góp của các yếu tố vô hình như kiến thức - kinh nghiệm - kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá - dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ năng quản lý... Tác động của nó không trực tiếp như năng suất đơn nhân tố mà phải thông qua sự biến đổi của các yếu tố hữu hình, đặc biệt là lao động và vốn. Nói cách khác, TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất, phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý...

Theo FAO (2018), năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là chỉ tiêu năng suất có tính đến sự đóng góp của tất cả các yếu tố đầu vào chính vào sản xuất, cung cấp thước đo về mức độ hiệu quả của chúng được kết hợp trong quá trình sản xuất. K.Fuglie (2015) diễn đạt khái niệm này theo một cách khác nhưng vẫn có cùng nội dung như sau: TFP là đầu ra thực tế của một công ty hoặc ngành sản xuất chia cho đầu vào thực tế được sử dụng bởi công ty hoặc ngành đó trong cùng thời kỳ (đầu vào thực tế là việc sử dụng kết hợp đất đai, lao động, vốn và nguyên liệu. tài nguyên sử dụng trong sản xuất)

Mặc dù có những khác biệt về thuật ngữ và cách diễn đạt, tuy nhiên bản chất của TFP là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế, là căn cứ để phân tích hiệu quả kinh tế vĩ mô. TFP có thể thay đổi do một số nguyên nhân chủ yếu như thay đổi chất lượng nguồn nhân lực (có thể do phát triển giáo dục, đào tạo), thay đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ (do phát triển khoa học và công nghệ), phân bổ lại nguồn lực và trình độ quản lý.

Nói tóm lại, chúng ta có thể chia kết quả sản xuất thành ba phần: (i) phần do vốn tạo ra, (ii) phần do lao động tạo ra; (iii) và phần do nhân tố tổng hợp tạo ra, trong đó, TFP là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động...

Phương pháp tính đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế

Để đo lường và đánh giá tác động của các yếu tố đầu vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, sử dụng mô hình xuất phát là mô hình tăng trưởng Solow có dạng hàm sản xuất Cobb-Douglas:

Y=TFP.f(Kα.Lβ) (1)

Trong đó Y là sản lượng đầu ra; K là vốn đầu vào; L là lao động; TFP chính là năng suất nhân tố tổng hợp; α là hệ số đóng góp của vốn (hay còn gọi là tỷ phần thu nhập của vốn) và β = (1- α) là hệ số đóng góp của lao động (hay còn gọi là tỷ phần thu nhập của lao động).

Lấy logarit tự nhiên hai vế của phương trình (1), ta có :

LnY = LnTFP + α LnK + β LnL (1’)

Vi phân hai vế của phương trình (1’) theo thời gian, ta có

Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (tfp) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông

Gọi GY là tốc độ tăng trưởng của GDP; GK là tốc độ tăng trưởng của vốn; GL là tốc độ tăng trưởng của lao động và GTFP là tốc độ tăng của năng suất nhân tố tổng hợp TFP, hàm sản xuất (1) biến đổi như sau:

GY = GTFP + α.GK + β.GL (2)

Các chỉ tiêu GY, GL, GK được tính dựa vào số liệu đã được công bố. Hệ số đóng góp của vốn (α), hệ số đóng góp của lao động (β) và GTFP có thể được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó hai phương pháp phổ biến nhất được sử dụng để đánh giá đóng góp của các yếu tố sản xuất vào tăng tưởng kinh tế trên cơ sở mô hình Solow như ở phương trình (1) là phương pháp hạch toán tăng trưởng (growth accounting) và phương pháp hồi quy tăng trưởng (growth regression). Có nhiều phương pháp tính toán TFP, mỗi phương pháp được ứng dụng phù hợp tùy theo điều kiện từng nước và hệ thống số liệu thống kê sẵn có khác nhau.

Sau khi tính được tốc độ tăng trưởng của từng yếu tố vốn (GK), lao động (GL) và tốc độ tăng của TFP (GTFP), chúng ta xác định được tỷ trọng đóng góp của vốn, lao động và TFP vào tốc độ tăng của GDP như sau:

% đóng góp của TFP = GTFP/ GY x 100%

% đóng góp của vốn =a GK / GYx 100%

% đóng góp của lao động = (1-a)GL/ GY x 100% = b. GL / GY x 100%

Các yếu tố tác động tới TFP:

Dựa trên cách tiếp cận của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) (2019) và Viện Năng suất Việt Nam (2019), các yếu tố chính tác động đến TFP bao gồm: (i) Thay đổi cơ cấu kinh tế, (ii) Thay đổi cơ cấu vốn, (iii) Môi trường kinh doanh, (iv) Tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, (v) Hệ thống quản lý, và (vi) Chất lượng lao động.

THỰC TRẠNG ĐÓNG GÓP CỦA TFP TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH ĐẮK NÔNG

Thực trạng tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2010-2024

GRDP của Đắk Nông tăng từ 14.314 tỷ đồng năm 2015 lên 23.530,7 tỷ đồng năm 2023, ước tính năm 2024 đạt 24.676,7 tỷ đồng.

So với các tỉnh vùng Tây Nguyên, mức tăng trưởng kinh tế của Đắk Nông chỉ cao hơn so với Kon Tum, thấp hơn nhiều so với Gia Lai, Đak Lắk và Lâm Đồng. Vì vậy, khoảng cách GRDP của các tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng, Đắk Lắk với Đắk Nông ngày càng tăng. Đến năm 2024, Đắk Nông vẫn là tỉnh có GRDP thấp thứ 2 của khu vực Tây Nguyên, chỉ lớn hơn so với Kon Tum.

Hình 1: GRDP các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2010-2024

Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (tfp) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông
Nguồn: Niên giám Thống kê các tỉnh 2020, 2023, Báo cáo kinh tế - xã hội các tỉnh Tây Nguyên năm 2024

So với các tỉnh có quy mô GRDP tương đương ở thời điểm năm 2010 (Lào Cai, Sơn La, Hà Nam, Phú Yên, Hậu Giang), mức tăng trưởng của Đắk Nông trong giai đoạn 2015-2023 cũng nhỏ hơn. Chính vì vậy, khoảng cách GRDP của các tỉnh này với Đắk Nông cũng ngày càng lớn.

Hình 2: GRDP theo giá so sánh giai đoạn 2010-2023 của các tỉnh có GRDP tương đương Đắk Nông năm 2010

Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (tfp) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông
Nguồn: Niên giám Thống kê các tỉnh 2020, 2023

Về tốc độ tăng

Tốc độ tăng trưởng GRDP Đắk Nông trung bình giai đoạn 2011-2024 là 7,21%/năm, trong đó, giai đoạn 2016-2020 là 6,36%, giai đoạn 2021-2024 là 5,75%, giai đoạn 2011-2015 là 7,25%, cho thấy Đắk Nông đã có xu hướng tăng trưởng chậm lại. Nguyên nhân một phần do quy mô kinh tế của tỉnh ngày càng tăng, ngoài ra căn cứ vào mức tăng trưởng cũng có thể thấy nhìn chung mức tăng trưởng chưa có sự gia tăng nhiều như đã nêu ở trên.

Tốc độ tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với mục tiêu đã đề ra trong Quyết định số 1942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đắk Nông đến năm 2020 (Thời kỳ 2011-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 15,5%/năm, Thời kỳ 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 16 - 17%/năm). Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2021-2024 cũng thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu Nghị quyết Đại Hội Đảng Bộ XII đề ra cho giai đoạn 2020-2025 (7,5-8%/năm).

Thực trạng đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Nông

Sử dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng, căn cứ vào bảng I-O của Việt Nam năm 2012 theo giá cơ bản để xác định Quy mô vốn cố định năm gốc, suất vốn bình quân để tạo ra một đơn vị sản lượng; Tỷ lệ khấu hao tương đồng với các nghiên cứu là 5%/ năm. Tỷ lệ lợi tức vốn cố định lấy theo mức bình quân từ bảng I-O năm 2012 và các dữ liệu được công bố trong các báo cáo Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam hàng năm.

Tổng sản lượng Y: Sản lượng Y trong nghiên cứu là tổng giá trị tăng thêm (GRDP) của Đắk Nông tính theo giá cố định năm 2010, đơn vị tính: tỷ đồng.

Yếu tố lao động (L): Lao động là số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân (là số lao động đang làm việc theo thống kê ngày 1/7 hàng năm của Cục Thống kê). Đơn vị tính: triệu người.

Yếu tố vốn (K): Vốn được là trữ lượng vốn sản xuất vì đây là chỉ tiêu thể hiện lượng vốn được sử dụng thực tế trong sản xuất của nền kinh tế có tính đến tỷ lệ khấu hao tài sản (chứ không phải là vốn đầu tư, vốn tích lũy hay tài sản cố định). Đơn vị tính: tỷ đồng (giá cố định năm 2010).

Sử dụng công thức tính toán được đề cập đến trong nghiên cứu của Trần Thọ Đạt (2005), K được đo lường xấp xỉ bằng công thức sau:

Kt = Kt-1 + It – δ* Kt-1 với K0 = λ* GRDP0.

Trong đó: K là vốn tích lũy

I là vốn đầu tư tăng thêm hàng năm

δ là tỷ lệ khấu hao vốn (trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng hệ số khấu hao trung bình của các loại tài sản được coi là đầu tư phát triển ở mức 6,5% (Dựa vào thông tư của Bộ tài chính về thời gian khấu hao của từng loại tài sản (Thông tư số 45/2013/TT-BTC ngày 25 tháng 4 năm 2013 của Bộ Tài chính Hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định) và bảng I/O có số liệu về giá trị sản xuất của các loại sản phẩm được coi như dạng tài sản cố định cho sản xuất, ta có được các số liệu về tỷ lệ khấu hao.

Suất vốn cố định để tạo ra GRDP là 3. Lợi tức trên vốn cố định (ρ) (theo bảng I-O 2012) giai đoạn trước 2015 xác định bằng 6,5% và giai đoạn sau 2015 là 7,5%. Với hệ số λ = 3 (tính theo bảng I-O 2012) tính cho cả nước, giả định của Đắk Nông hệ số λ = 3 (kịch bản cơ sở), nghiên cứu tính ra K năm gốc 2012 của Đắk Nông bằng cách K2012=3*GRDP2012(giá so sánh)=3* 11848,3= 35544,9 (triệu đồng, giá so sánh 2010), áp dụng công thức tính Kt ở trên sẽ có được chuỗi K của Đắk Nông theo giai đoạn 2010 - 2022. Tỷ phần đóng góp của Vốn cố định được xác định: α = ρ*K/Y.

Chuỗi số liệu đưa vào mô hình như Bảng 1.

Bảng 1: Chuỗi số liệu K và L dùng để đo hàm sản xuất Cobb-Douglass

Đơn vị tính: triệu đồng, nghìn người

Năm

GRDP (Y)

Lao động (L)

Vốn đầu tư toàn xã hội (I)

Vốn sản xuất (K)

K/Y

α = ρ*K/Y

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)= (4)/(1)

(6)= ρ*(5)

2010

9.974,3

288.267

3.749,2

28.988,3

2,906

0,189

2011

10.818,7

303.648

5.072,2

32.176,3

2,974

0,193

2012

11.848,3

321.142

5.460,1

35.544,9

3,000

0,195

2013

12.652,4

333.431

6.945,0

40.179,5

3,176

0,206

2014

13.466,5

349.271

6.767,9

44.335,7

3,292

0,214

2015

14.314,2

355.527

6.582,8

48.036,7

3,356

0,252

2016

14.959,7

361.198

6.317,5

51.231,8

3,425

0,257

2017

16.141,7

364.948

6.476,7

54.378,4

3,369

0,253

2018

17.182,0

366.740

6.630,1

57.473,9

3,345

0,251

2019

18.222,4

359.363

6.551,6

60.289,7

3,309

0,248

2020

19.150,0

363.752

6.770,6

63.141,5

3,297

0,247

2021

20.820,0

386.762

9.769,9

68.807,2

3,305

0,248

2022

22.301,0

389.373

10.728,7

75.063,4

3,366

0,252

2023

23.489,0

392.460

11.325,0

81.509,3

3,470

0,260

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê và tính toán của nhóm nghiên cứu

Kết quả tính toán

Bảng 2: Tốc độ tăng của TFP

Năm

β

gGRDP

gK

gL

α*k

β*l

gtfp

2010

(7)=1-(6)

(8)

(9)

(10)

(11)=(6)*(9)

(12)=(7)*(10)

(13)=(8)-(11)-(12)

2011

0,807

8,47%

11,00%

5,34%

2,13%

4,30%

2,04%

2012

0,805

9,52%

10,47%

5,76%

2,04%

4,64%

2,84%

2013

0,794

6,79%

13,04%

3,83%

2,69%

3,04%

1,06%

2014

0,786

6,43%

10,34%

4,75%

2,21%

3,73%

0,49%

2015

0,748

6,29%

8,35%

1,79%

2,10%

1,34%

2,85%

2016

0,743

4,51%

6,65%

1,60%

1,71%

1,19%

1,62%

2017

0,747

7,90%

6,14%

1,04%

1,55%

0,78%

5,57%

2018

0,749

6,44%

5,69%

0,49%

1,43%

0,37%

4,65%

2019

0,752

6,06%

4,90%

-2,01%

1,22%

-1,51%

6,35%

2020

0,753

5,09%

4,73%

1,22%

1,17%

0,92%

3,00%

2021

0,752

8,72%

8,97%

6,33%

2,22%

4,76%

1,74%

2022

0,748

7,11%

9,09%

0,68%

2,30%

0,50%

4,31%

2023

0,740

5,33%

8,59%

0,79%

2,23%

0,59%

2,51%

Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu

Ghi chú: Do tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp năm 2020, dẫn đến số lượng L giảm đi, gây ảnh hưởng đến kết quả phân tích.

Bảng 3: Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của các yếu tố

Năm

Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Đắk Nông

GRDP

K

(14)=(11)/(8)

L

(15)=(12)/(8)

TFP

(16)=(13)/(8)

2011-2020

100%

28%

26%

46%

2021-2023

100%

33%

24%

43%

2011-2020 (bỏ 2019)

100%

28,5%

31,5%

40,0%

Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu

Trong giai đoạn 2011-2020, TFP đóng góp tới 46% vào tăng trưởng GRDP của Đắk Nông, cao hơn nhiều so với đóng góp của yếu tố vốn (28%) và lao động (26%). Kết quả này phản ánh những nỗ lực đáng ghi nhận của tỉnh trong việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, phù hợp với định hướng phát triển của vùng Tây Nguyên và xu thế phát triển chung của cả nước.

Sang giai đoạn 2021-2023, tỷ trọng đóng góp mặc dù có giảm nhẹ (xuống 43%), nhưng TFP vẫn là yếu tố đóng góp lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đáng chú ý là sự gia tăng trong đóng góp của yếu tố vốn lên 33%, trong khi đóng góp của yếu tố lao động giảm nhẹ xuống 24%. Xu hướng này phản ánh quá trình chuyển dịch của nền kinh tế theo hướng thâm dụng vốn nhiều hơn, phù hợp với định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

Tuy nhiên, khi loại trừ yếu tố bất thường của năm 2019, giai đoạn 2011-2020 (không tính 2019), tỷ trọng đóng góp của TFP là còn 40%, trong khi đóng góp của vốn và lao động tăng lên lần lượt là 28,5% và 31,5%. Điều này cho thấy vai trò của TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh còn chưa thực sự ổn định và còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đặc thù của từng năm.

Bên cạnh đó, so với các tỉnh trong vùng như Lâm Đồng hay Đắk Lắk, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Đắk Nông còn thấp hơn, phản ánh thực trạng về trình độ phát triển công nghệ và hiệu quả sử dụng nguồn lực của tỉnh còn chưa cao.

Điều này có thể được lý giải bởi một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tỉnh Đắk Nông như sau:

Thứ nhất, giai đoạn 2011-2020, cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Nông có xu hướng chuyển dịch theo chiều hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản). Năm 2020, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 37,28%, thấp hơn năm 2015 (47,08%); ngành công nghiệp - xây dựng đạt 16,73% và ngành dịch vụ đạt 41,55%, cao hơn năm 2015 (lần lượt là 12,58% và 36,46%). Tuy nhiên, so với mục tiêu Quy hoạch tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, cơ cấu kinh tế của tỉnh chưa đạt mục tiêu đề ra. Theo đó, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra (mục tiêu đến năm 2015 tỷ trọng công nghiệp - xây dựng đạt 39,57% và năm 2020 đạt 45,7%); trong khi đó tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn còn cao hơn mục tiêu Quy hoạch (mục tiêu đến năm 2015 tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 33,73% và năm 2020 đạt 16,5%).

Giai đoạn 2021-2023, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Nông theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và công nghiệp - xây dựng (lần lượt tăng 1,51 và 0,44 điểm phần trăm); trong khi đó tỷ trọng ngành dịch vụ của tỉnh có xu hướng giảm đáng kể từ 38,08% (năm 2021) xuống còn 36,61% (năm 2023), tương ứng giảm 1,47 điểm phần trăm. Năm 2023, ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của tỉnh (39,81%), tiếp đến là ngành dịch vụ (chiếm 36,61%) và cuối cùng là ngành công nghiệp - xây dựng (chiếm 19,72%), còn lại là thuế trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 3,85%. So với mục tiêu Nghị quyết số 56/NQ-HĐND, cơ cấu kinh tế của tỉnh Đắk Nông không đạt mục tiêu đề ra (ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp - xây dựng và dịch vụ lần lượt chiếm 37,63%; 19,78%; 38,57%).

Cơ cấu kinh tế của tỉnh Đắk Nông còn tương đối lạc hậu so với các địa phương trong vùng Tây Nguyên, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ lực của tỉnh (Hình 4).

Hình 4: Cơ cấu GRDP (giá hiện hành) các tỉnh vùng Tây Nguyên năm 2023 (%)

Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (tfp) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông
Nguồn: Niên giám Thống kê các tỉnh vùng Tây Nguyên năm 2023

Thứ hai, mặc dù có cải thiện trong giai đoạn 2011-2024, nhưng chất lượng lao động của Đắk Nông chưa cao, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp nhận và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất. Đến năm 2024, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo của tỉnh đạt 16,7%. So với các tỉnh vùng Tây Nguyên, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo của Đắk Nông cũng chỉ cao hơn so với Gia Lai (15,3%).

Thứ ba, phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo: đánh giá sự phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của tỉnh qua Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương PII của Việt Nam cho thấy chỉ số đổi mới sáng tạo của tỉnh Đắk Nông tương đối thấp. Năm 2024, chỉ số đổi mới sáng tạo của tỉnh Đắk Nông đạt 29,04 điểm, thấp hơn so với năm 2023 (29,71 điểm). Chỉ số PII của Đắk Nông vẫn đứng thứ 4/5 các tỉnh vùng Tây Nguyên (chỉ cao hơn Gia Lai) và đứng thứ 54/63 tỉnh, thành cả nước. Điểm số trụ cột PII của tỉnh Đắk Nông hầu hết đều thấp hơn bình quân chung của vùng Tây Nguyên, nhất là các trụ cột như vốn con người và nghiên cứu; cơ sở hạ tầng; trình độ phát triển của thị trường; sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ; tác động.

Thứ tư, cơ cấu vốn: Hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh rất hạn chế. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ chiếm chưa tới 1% tổng tổng vốn đầu tư xã hội của tỉnh.

Thứ năm, môi trường kinh doanh và thể chế:

Giai đoạn 2011-2015, chỉ số PCI của tỉnh Đắk Nông có xu hướng giảm xuống từ 52,94 điểm (năm 2011) xuống 48,96 điểm (năm 2015), tương ứng giảm 3,98 điểm. Tuy nhiên đến giai đoạn 2016-2023, chỉ số PCI của tỉnh ngày càng có sự cải thiện rõ rệt, từ 53,63 điểm (năm 2016) lên đến 67,79 điểm (năm 2023), tương ứng tăng 14,16 điểm.

Mặc dù chỉ số PCI tăng, song xếp hạng PCI của Đắk Nông thiếu ổn định trong giai đoạn 2011-2020; nhưng từ năm 2021 đến nay, xếp hạng PCI đã tăng đáng kể. Từ một tỉnh có chỉ số PCI xếp hạng top cuối của cả nước trong giai đoạn 2015-2020, thứ hạng PCI của Đắk Nông đã tăng lên vị trí 38/63 tỉnh thành cả nước (năm 2022) và tiếp tục vươn lên đứng thứ 21/63 tỉnh thành cả nước (năm 2023), tăng 17 bậc so với năm 2022.

So với các tỉnh vùng Tây Nguyên, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Đắk Nông giai đoạn 2015-2020 luôn đạt thấp nhất. Tuy nhiên đến năm 2023, chỉ số PCI của Đắk Nông đã vượt lên dẫn đầu các tỉnh trong vùng.

Hình 5: Chỉ số PCI của các tỉnh khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2011-2023

Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (tfp) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông
Nguồn: Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam qua các năm (VCCI)

Xét các thành phần chỉ số PCI tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn 2016-2023 có thể thấy hầu hết các chỉ số thành phần đều cải thiện đáng kể; riêng 03 chỉ số thành phần “Gia nhập thị trường”, “Tính minh bạch” và “Đào tạo lao động” có xu hướng giảm. Các chỉ số có điểm số cao nhất là “Thiết chế pháp lý và An ninh trật tự”, chỉ số có điểm số thấp nhất là “Đào tạo lao động”.

Về thể chế: cải cách hành chính ở Đắk Nông có nhiều kết quả tích cực, chỉ số cải cách hành chính PAR-index của tỉnh có xu hướng tăng lên, tuy nhiên chưa bền vững. Giai đoạn 2018-2021 chỉ số PAR-index có sự cải thiện rõ rệt, tuy nhiên đến năm 2022 lại có sự giảm nhẹ so với năm 2021, năm 2023 lại tăng lên, tuy nhiên vẫn thấp hơn điểm số năm 2021.

Mặc dù chỉ số cải cách hành chính PAR-index có xu hướng tăng, nhưng xếp hạng PAR-index của tỉnh vẫn ở mức thấp so với các tỉnh, thành cả nước. Giai đoạn 2014-2020, xếp hạng PAR-index của tỉnh Đắk Nông ở mức thấp và nằm trong top cuối cả nước, dao động từ 51-60 trên 63 tỉnh thành. Hai năm 2021-2022, xếp hạng PAR-index của tỉnh cải thiện đáng kể, năm 2022 đứng thứ 37/63 tỉnh thành cả nước. Tuy nhiên đến năm 2023, PAR-index tỉnh Đắk Nông đứng thứ 51/63 tỉnh thành, giảm 14 bậc so với năm 2022, nằm trong nhóm B. Như vây, cải cách hành chính của Đắk Nông vẫn chậm hơn so với các tỉnh, thành trong cả nước.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Từ kết quả phân tích trên có thể thấy để tăng cường đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế, Đắc Nông cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó, cần chú trọng đến các giải pháp chiến lược sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao giá trị gia tăng

- Giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: thúc đẩy công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông sản chủ lực (cà phê, hồ tiêu, bơ, mắc ca…), kết hợp phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao

- Phát triển công nghiệp khai khoáng theo hướng bền vững: Xây dựng chính sách khai thác hợp lý khoáng sản, đầu tư công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.

- Mở rộng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là du lịch sinh thái, công nghiệp văn hoá gắn với tiềm năng thiên nhiên và văn hóa bản địa của tỉnh.

Thứ hai, tăng cường đầu tư giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh

- Đào tạo theo nhu cầu thực tiễn: có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và xu hướng phát triển công nghệ,

- Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo: Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cải thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh. Hỗ trợ phát triển hệ thống đào tạo nghề chất lượng cao, tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ chế biến, công nghệ nông nghiệp, du lịch.

- Chính sách thu hút nhân tài: Có cơ chế đãi ngộ hợp lý để thu hút lao động chất lượng cao từ các tỉnh thành khác về làm việc tại Đắk Nông.

Thứ ba, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài

- Ưu tiên FDI vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao: Đặc biệt là công nghệ chế biến, sản xuất nông nghiệp thông minh, công nghiệp năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái.

- Hỗ trợ doanh nghiệp của tỉnh liên kết với FDI: Thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, hình thành chuỗi cung ứng bền vững.

Thứ tư, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

- Tăng cường ứng dụng công nghệ trong sản xuất: Hỗ trợ doanh nghiệp địa phương tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến.

- Thúc đẩy chuyển đổi số: Đầu tư hạ tầng số, phát triển thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp số hóa quy trình sản xuất và kinh doanh.

- Tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học uy tín trong và ngoài nước thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạp và chuyển giao công nghệ.

Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thể chế, môi trường đầu tư

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào tỉnh.

- Cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): Đẩy mạnh các sáng kiến cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp.

- Tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình: Xây dựng hệ thống giám sát thực thi chính sách, hạn chế tình trạng quan liêu và tham nhũng trong quản lý kinh tế.

- Đầu tư phát triển hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, tăng cường kết nối Đắk Nông với các trung tâm kinh tế lớn (TP.HCM, Đà Nẵng, Tây Nguyên).

Tóm lại, để tăng cường đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế, Đắk Nông cần một chiến lược phát triển đồng bộ, tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút đầu tư, phát triển khoa học - công nghệ, cải cách thể chế và môi trường đầu tư. Những giải pháp này không chỉ giúp tỉnh đạt mục tiêu phát triển nhanh mà còn đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn./.

Tài liệu tham khảo

APO (2019), APO Productivity Databook 2019, Tokyo, Japan

Ban Chấp hành Trung ương (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Báo cáo KTXH các tỉnh Tây Nguyên 2024

Bộ Khoa học và Công nghệ (2023-2024), Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023, 2024.

Bộ Nội vụ (2012-2023), Báo cáo Kết quả Chỉ số cải cách hành chính qua các năm từ 2012-2023.

FAO (2018), Transforming the livestock sector through the Sustainable Development Goals. Food and Agriculture Organization of the United Nations. Rome, retrieved from http://www.fao.org/3/CA1201EN/ca1201en.pdf.

K.Fuglie (2015), Accounting for Growth in Global Agriculture, Bio-Based and Applied Economics, 4(3), 201–234. http://doi.org/10.13128/BAE-17151

Nghị quyết Đại Hội Đảng Bộ XII tỉnh Đắk Nông

Tổng cục Thống kê (2021-2024), Niên giám Thống kêcác tỉnh Lào Cai, Sơn La, Hà Nam, Phú Yên, Hậu Giang, Gia Lai, Đak Lắk và Lâm Đồng, Kon Tum, Đắk Nông, 2020, 2023,

OECD, https://www.oecd.org/en/data/indicators/multifactor-productivity.html

Solow (1956), A Contribution to the Theory of Economic Growth, The Quarterly Journal of Economics, 70 (1956), 65-94

Solow (1957), Technical change and the aggregate production function, Review of Economics and Statistics, 39, 312-320.

Tăng Văn Khiên (2005), Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp: Phương pháp tính và ứng dụng, Nxb Thống kê Hà Nội

Trần Văn Thọ (2017), Mô hình đo lường tác động của vốn, lao động và TFP đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1989-2014, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 2017

Trung tâm Năng suất Việt Nam (2009). Báo cáo nghiên cứu chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007, Hà Nội.

VCCI (2011-2023), Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam qua các năm, từ năm 2011 đến 2023


Ngày nhận bài: 15/02/2025; Ngày phản biện: 26/02/2025; Ngày duyệt đăng: 10/3/2025

*Đây là nghiên cứu được tài trợ thuộc đề tài: “Nghiên cứu nâng cao chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) gắn với phát triển kinh tế của tỉnh Đắk Nông đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Giai đoạn 2: Đánh giá hiện trạng, tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao vai trò của chỉ số TFP trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh)” của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Nông.

Bạn đang đọc bài viết "Tăng cường đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông" tại chuyên mục Diễn đàn khoa học. Tin bài cộng tác vui lòng gửi về email Banbientap@kinhtevadulich.vn hoặc liên hệ hotline 0917501400.