Tạ Hữu Dực
Viện Dân tộc học
Email: taducvdt@yahoo.com
Tóm tắt
Người Bru-Vân Kiều ở Quảng Bình sống gắn với rừng từ lâu đời, họ có cách khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên đất rừng và rừng phù hợp với tín ngưỡng, văn hóa và sinh kế truyền thống. Chính sách quản lý rừng và tài nguyên lâm nghiệp của Việt Nam có sự thay đổi qua các thời kỳ, đã và đang tác động mạnh tới sinh kế, văn hóa của người Bru-Vân Kiều nơi đây, ở cả khía cạnh tích cực và tiêu cực. Một mặt thúc đẩy sự giao lưu, phát triển kinh tế-văn hóa, mặt khác lại làm nảy sinh một số mâu thuẫn, tranh chấp về quyền sử dụng đất và rừng. Bài viết sẽ phác họa hiện trạng và đi sâu phân tích nguyên nhân những mâu thuẫn này, qua đó có những khuyến nghị góp phần giải quyết những thách thức đặt ra.
Từ khóa: Sử dụng, quản lý đất rừng, người Bru-Vân Kiều, Quảng Bình
Summary
The Bru-Van Kieu people in Quang Binh have lived in association with the forest for a long time. They have a way of exploiting, using, and managing forest land and forest resources in accordance with their traditional beliefs, culture, and livelihoods. Vietnam's forest and forestry resource management policies have changed over time and have had an enormous impact on the livelihoods and culture of the Bru-Van Kieu people here, in both positive and negative aspects. On the one hand, it promotes economic-cultural exchange and development; on the other hand, it has given rise to several conflicts and disputes over land and forest use rights. The article will outline the current situation and analyze in depth the causes of these conflicts, thereby making recommendations to contribute to solving the challenges.
Keywords: Use and management of forest land, Bru-Van Kieu people, Quang Binh
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những bất cập trong quản lý sử dụng đất lâm nghiệp, bao gồm mâu thuẫn đất đai giữa chính quyền địa phương, Ban quản lý rừng, công ty lâm nghiệp và người dân là vấn đề nóng tại các phiên họp quan trọng của Quốc hội, Chính phủ. Không chỉ ở Việt Nam, mâu thuẫn đất lâm nghiệp cũng là vấn đề phổ biến ở nhiều nước khác. Theo báo cáo của Yasmi và cộng sự (2010), do sự cạnh tranh đất đai giữa các mục tiêu phát triển, khai thác tài nguyên và bảo tồn, mâu thuẫn đất đai giữa cộng đồng địa phương và người ngoài (gồm các công ty, cơ quan Nhà nước) ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô. Mâu thuẫn đất lâm nghiệp ảnh hưởng xấu đến các khía cạnh xã hội (làm mất ổn định, lòng tin và đoàn kết), kinh tế (lãng phí thời gian và chi phí, giảm khả năng thu hút đầu tư) và môi trường (làm giảm diện tích và chất lượng rừng). Nguyên nhân của mâu thuẫn có thể là do tranh chấp về quyền sử dụng đất, sự thiếu phối hợp và nhất quán giữa các cơ quan quản lý liên quan, hoặc do sự thiên lệch chính sách (ví dụ ưu tiên phát triển kinh tế quốc gia hơn là lợi ích của cộng đồng).
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến đầu những năm 2000, sinh kế của người dân tộc Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát, xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên rừng. Họ có rừng truyền thống và đất canh tác nương rẫy theo phương thức luân canh. Tuy nhiên, khi lâm trường Khe Giữa (thuộc Công ty TNHH MTV Lâm Công nghiệp Long Đại) tăng cường công tác quản lý đầu những năm 2000, đặc biệt là từ khi Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong thành lập và đi vào hoạt động năm 2020, cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn. Họ bị giới hạn quyền tiếp cận rừng tự nhiên, thiếu đất canh tác, nghèo đói, mất đi các luật tục bảo vệ rừng truyền thống và thiếu cơ hội việc làm. Đây là những vấn đề mà họ đang phải đối mặt và vượt qua. Nghiên cứu trường hợp này tìm hiểu việc quản lý, sử dụng tài nguyên đất rừng và rừng của người dân Bru-Bru-Vân Kiều tại bản Mít Cát, xã Kim Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình; phân tích những thách thức, khó khăn do quyền tiếp cận tài nguyên lâm nghiệp của người dân bị hạn chế; và đề xuất một số khuyến nghị nhằm bảo vệ tài nguyên rừng và giảm nghèo bền vững cho người dân nơi đây.
VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Kim Thủy là một xã nằm ở phía tây nam của tỉnh Quảng Bình và là xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn của huyện Lệ Thủy. Phía tây bắc giáp nước Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía bắc giáp xã Lâm Thủy và Ngân Thủy của huyện Lệ Thủy, phía đông giáp các xã Phú Thủy, Trường Thủy, Thái Thủy của huyện Lệ Thủy. Đây là xã có địa hình rộng với diện tích tự nhiên là 485,67 km2 chiếm 34.29% diện tích tự nhiên của toàn huyện. Địa hình của xã chủ yếu là đồi núi và sông ngòi, với hai con sông chính là sông Long Đại và sông Kiến Giang. Địa hình này vừa tạo ra tiềm năng phát triển kinh tế cho xã vừa gây ra thách thức cho việc khai thác nội lực và xóa đói giảm nghèo bền vững. Đến cuối năm 2021 trên địa bàn toàn xã có 12 bản trong đó có đến 10 bản thuộc vào bản đặc biệt khó khăn khu vực III. Toàn xã có 1.237 hộ với 4517 nhân khẩu, trong đó hộ dân tộc thiểu số (Bru-Vân Kiều) có 772 hộ với 2901 khẩu chiếm 64,2%. Kim Thủy là xã có diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng lớn nhất huyện Lệ Thủy, độ che phủ rừng hơn 86,7%. Năm 2020 toàn xã có 429 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 35,93%; đến đầu năm 2021 Kim Thủy còn có 399/1237 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 32,26%, trong đó hộ nghèo người dân tộc thiểu số là 366 hộ chiếm 92%. Hộ cận nghèo có 95 hộ chiếm tỷ lệ 84,8%, tăng 3,8% so với đầu năm 2020. Bên cạnh nương rẫy và khai thác nguồn lợi tự nhiên từ rừng, chăn nuôi, thủ công và trao đổi chỉ là hoạt động kinh tế phụ; chăn nuôi gia súc, gia cầm trước hết phục vụ cho các lễ cúng, rồi sau đó mới cải thiện bữa ăn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế của xã Kim Thủy đã có sự chuyển dịch từ nông - lâm nghiệp sang thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa mang lại hiệu quả cao cho việc cải thiện đời sống của các hộ nghèo. Nguyên nhân là do thu nhập từ sản xuất nông - lâm nghiệp của các hộ nghèo vẫn thấp do diện tích đất canh tác ít, sản lượng và giá trị tăng thêm thấp. Ngoài ra, thương mại và dịch vụ còn phụ thuộc vào mạng lưới thương lái và thiếu sự liên kết giữa các nhà sản xuất và tiêu dùng. Do đó, cần có thêm những biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế của xã Kim Thủy một cách bền vững và công bằng.
Bản Mít Cát là một trong 3 bản biên giới của xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bản có địa lý khó khăn, nằm phía Tây của xã, cách biên giới Việt - Lào khoảng hơn 10 km và cách trung tâm xã 40 km. Hiện tại, bản có 80 hộ gia đình cùng cư trú, với tổng số 360 nhân khẩu. Trong đó, 75 hộ (94%) là người dân tộc Bru-Vân Kiều và 5 hộ (6%) là người Kinh. Bản có tỷ lệ nghèo cao, với 59 hộ (74%) thuộc diện hộ nghèo và 9 hộ (11%) thuộc diện hộ cận nghèo (đều là hộ Bru-Vân Kiều). Người dân bản thường thiếu lương thực vào những tháng giáp hạt và phải nhận gạo hỗ trợ từ Nhà nước. Nền kinh tế của bản chủ yếu dựa vào nông nghiệp-lâm nghiệp và làm thuê. Các loại cây trồng chính là sắn, lúa nước, ngô, lúa nương và các loại rau màu. Các sản phẩm lâm nghiệp bao gồm: cây keo, lâm sản ngoài gỗ (mây, măng, mật ong, nấm, cây thuốc…) và các loại thú rừng không thuộc danh sách cấm. Tuy nhiên, do sự suy giảm của tài nguyên rừng và sự can thiệp của các cơ quan quản lý (Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong, lâm trường Khe Giữa) nguồn thu nhập từ lâm nghiệp ngày càng giảm sút, ảnh hưởng tới sinh kế và văn hóa của người dân.
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG, QUẢN LÝ RỪNG VÀ ĐẤT RỪNG
Sử dụng, bảo vệ rừng và đất rừng trước những năm 2000
Sử dụng rừng và đất rừng bản Mít Cát
Người Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát, xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, có nguồn gốc từ vùng núi huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Họ đã di cư nhiều lần do chiến tranh chống Mỹ vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX và định cư tại bản Mít từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Bản Mít nằm trải dài theo một thung lũng nhỏ bị bao quanh bởi đồi núi và rừng tự nhiên. Sông Long Đại chảy qua bản và cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, tưới tiêu và đánh bắt thủy sản của người dân. Từ năm 1988, một nhóm hộ từ bản Mít đã sang sinh sống và canh tác ở khe Cát và lập thành xóm Cát. Từ đó, ranh giới rừng ban đầu của bản Mít đã được phân chia lại cho hai xóm. Người dân Bru-Vân Kiều ở hai xóm (nay thuộc bản Mít Cát) vẫn giữ sự đoàn kết và được quyền sử dụng chung đất nương rẫy truyền thống, rừng và đất rừng.
Sau khi đến định cư, người dân đã lập bản, khai thác, sử dụng đất, rừng theo nhu cầu và tập quán sản xuất, sinh hoạt của mình, sống hoà với thiên nhiên. Họ đã xác định ranh giới của bản bằng các cây lớn, mỏm đá hoặc khe suối. Đất đai của bản được phân thành ba loại: (i) Đất nhà ở là vùng đất bằng phẳng nằm ở trung tâm bản và gần các khe suối. (ii) Đất nương rẫy luân khoảnh là vùng đất trên các sườn đồi xung quanh bản, cách khoảng 30 phút đến một tiếng đi bộ. Mỗi hộ dân có khoảng ba đến bốn đám đất nương rẫy để canh tác theo phương thức luân khoảnh và để rừng phục hồi sau mười năm. Trên mỗi nương rẫy, họ trồng nhiều loại cây để cung cấp lương thực và thực phẩm như lúa rẫy, sắn, bí, rau cải… Họ sử dụng các giống cây trồng địa phương và tự bảo quản; khi di chuyển từ vùng này sang vùng khác họ mang theo các giống cây để gieo trồng. Phương thức canh tác này giúp duy trì tính đa dạng về loài, giống bản địa và an ninh lương thực. (iii) Rừng tự nhiên xung quanh bản được người dân gọi là “xà rừng vil”, nghĩa là “rừng của bản”. Đây là khu vực được người dân sử dụng chung để khai thác lâm sản, săn bắt và lấy gỗ làm nhà.
Theo người dân địa phương, trước đây họ có thể tự do đi vào các vùng đất để làm nương rẫy và vào rừng sâu để khai thác lâm sản, săn bắt. Chỉ có rừng thiêng là khu vực riêng của mỗi bản để thờ cúng và làm nghi lễ. Rừng thiêng là nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng liên quan đến đời sống tâm linh của người dân. Đây là khu vực cấm không được phá hoại, chặt cây làm rẫy. Đối với đất nương rẫy, người dân có thể bỏ hóa qua nhiều năm nhưng thường không có tranh chấp, lấn chiếm đất giữa các hộ.
Bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng
Người dân tộc Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát, xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, có phong tục lập bàn thờ của bản tại một khu rừng có cây lớn gần khe suối để thực hiện các hoạt động văn hoá tâm linh tín ngưỡng. Họ gọi khu rừng này là “Lapay”, nơi được coi là linh thiêng và quan trọng đối với cuộc sống tinh thần của họ. Theo quan niệm của họ, Lapay là nơi trú ngụ của thần Núi, thần Rừng, là chốn linh thiêng của bản mà không ai được phép xâm phạm và phá hoại. Nếu vi phạm, người trong hay ngoài cộng đồng đều bị xử phạt nặng theo qui định của bản. Luật tục này đã được dân bản tuân thủ tuyệt đối để bảo vệ rừng nghiêm ngặt. Để lập Lapay cho bản, người dân phải đóng góp để cúng một con trâu làm lễ. Cũng theo qui ước của bản Mít Cát, mỗi hộ dân khi đến ở tại bản đều phải cúng một con gà tại bàn thờ Lapay của bản; và khi muốn ra khỏi vùng đất này để chuyển đến nơi khác sinh sống, thì phải cúng một con lợn.
Trong các dịp lễ hàng năm và trước khi bắt đầu vụ mùa mới, Lapay là nơi để già làng và người dân làm lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, làm ăn thuận lợi. Hiện nay dân bản vẫn duy trì hai lễ cúng lớn hàng năm vào tháng Giêng và tháng 6 âm lịch. Lễ đầu tiên cúng vào khoảng từ ngày mồng 10 đến rằm tháng Giêng, là Lễ mở cửa rừng (lễ cúng miếu bản) để cầu mong cuộc sống dân bản bình an, mưa thuận gió hoà cho một vụ làm rẫy mới và vào rừng thu hái, săn bắt gặp may mắn. Tại lễ này, mỗi hộ gia đình trong bản sẽ đóng góp một con gà để làm lễ tế thần Rừng, , Đất. Trong dịp này, chủ lễ nhắc nhở mọi người về những điều kiêng cữ, những khu vực được phép hay cấm kỵ làm nương rẫy. Đây cũng là lúc mọi người trao đổi với nhau về những kinh nghiệm trong sản xuất trước khi bước vào mùa rẫy mới như có nghiên cứu đã chỉ ra (Vương Xuân Tình chủ biên, 2017, tr. 548). Vào tháng 6 Âm lịch có Lễ lấp lỗ, là lễ để cầu cho mùa màng bội thu. Lễ vật cúng gồm một con lợn và hai con gà do toàn bộ các hộ dân trong bản đóng góp. Những nghi lễ tâm linh liên quan đến rừng thiêng đều do già làng đảm nhận. Thông qua các nghi lễ cúng rừng, các già làng thường mong muốn con cháu duy trì truyền thống giữ rừng. Mỗi hộ đều có ý thức giáo dục thế hệ trẻ về giá trị của rừng đối với cuộc sống của dân bản, đảm bảo rừng được bảo vệ tốt. Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của bản.
Bản Mít Cát có địa hình hẹp và thiếu đất sản xuất. Do đó, cả nam giới và phụ nữ ở đây đều tham gia các hoạt động tạo thu nhập từ rừng. Họ không chỉ khai thác gỗ mà còn thu hái các sản phẩm khác như măng, mây, đoác, mật ong… Họ thường xuyên vào rừng để lấy các lâm sản này và kiểm tra tình trạng rừng. Nếu phát hiện có người vi phạm, họ sẽ báo cho trưởng bản và già làng để xử lý. Phụ nữ có kinh nghiệm trong việc bảo tồn và phát triển các lâm sản phụ bằng cách thu hái bền vững. Họ cũng là người ở nhà nhiều hơn nam giới (vì nam giới hay đi rừng xa, thậm chí sang Lào để lấy mật ong, cây thuốc). Vì thế, họ là người đầu tiên phát hiện người lạ hay người ngoài vào rừng. Bản Mít Cát nằm gần khu vực biên giới giáp với nước Lào. Do đó, có nhiều người đi qua khu vực này để đến khu vực biên giới. Họ cũng chính là những người sẵn sàng khai thác, tận thu bất kỳ sản phẩm nào đang tồn tại trong rừng. Do vậy, phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và ngăn chặn những hành vi này[1].
Hoạt động sinh kế gắn với rừng
Theo một nghiên cứu đã chỉ ra, trong truyền thống, tài nguyên rừng dồi dào nên ngoài canh tác nương rẫy, người Bru-Vân Kiều đã tận dụng những nguồn lợi từ rừng để đảm bảo cho nhu cầu mưu sinh. Việc khai thác các loại cây, con, lâm sản phụ… từ rừng đã giúp người dân bổ sung một phần lương thực, thực phẩm quan trọng khi giáp hạt, mất mùa (Vương Xuân Tình chủ biên, 2017, tr. 522). Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng cho đời sống của họ, cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men và các sản phẩm khác. Họ sử dụng nhiều phương pháp để thu hoạch các sản vật rừng, như hái lượm, khai thác lâm sản phụ và săn bắn thú rừng. Các hoạt động này có sự phân công lao động theo giới, tuổi và thời gian trong năm. Phụ nữ và trẻ em chủ yếu chịu trách nhiệm hái lượm, trong khi nam giới chủ yếu tham gia đánh bắt và săn bắn. Hoạt động khai thác rừng được tăng cường vào mùa đông và mùa khô, khi công việc ít bận rộn. Họ cũng chú ý đến những tập tính của từng loài thú để chọn thời điểm đi săn phù hợp. Trước đây, khai thác rừng là một nguồn thu quan trọng của người Bru-Vân Kiều ở xã Kim Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Tuy nhiên, từ những năm 2000 trở đi, do sự suy giảm của rừng và sự can thiệp của Nhà nước, hoạt động này đã bị hạn chế và không còn mang lại hiệu quả cao như trước. Sản phẩm thu được từ rừng giảm sút về số lượng và chất lượng. Người Bru-Vân Kiều phải chuyển dần sang các hoạt động sản xuất khác, như chăn nuôi và lao động làm thuê. Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, họ vẫn duy trì một mức độ khai thác rừng nhất định để bổ sung cho sinh kế.
Thay đổi trong việc sử dụng, quản lý rừng và đất rừng hiện nay
Hoạt động quản lý rừng, đất rừng
Ở Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ XX, sau chủ trương đổi mới nền kinh tế, hộ gia đình đã được tham gia trực tiếp vào phát triển, quản lý và bảo vệ rừng theo Chương trình 327, Chương trình 661, giao đất giao rừng (GĐGR) theo NĐ 02/1994, Nghị định 163/1999, Luật Đất đất 2003 và 2013, nhận khoán bảo vệ rừng theo Nghị định 01/1995, Nghị định 135/2005…. Cộng đồng dân cư các làng bản được GĐGR và nhận khoán bảo vệ rừng từ Luật Đất đai 2003 và Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp 2017. Từ khi được GĐGR, nhận khoán bảo vệ rừng, cộng đồng dân cư làng bản phát huy luật tục quản lý bảo vệ rừng hiệu quả trong các trường hợp giao đúng các khu rừng truyền thống của họ. Đối với đa số hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) có cuộc sống khó khăn nhưng không được hỗ trợ kinh phí bảo vệ rừng (BVR) đối với các diện tích rừng được giao (chỉ được hỗ trợ chi trả dịch vụ môi trường rừng từ năm 2011 nếu các khu rừng được giao nằm trong lưu vực các hồ thủy điện), kinh phí hỗ trợ BVR nhận khoán thấp, hưởng lợi từ rừng khó thực hiện nên thu nhập từ rừng không đủ trang trải cho nhu cầu hàng ngày. Do đó, người dân thường phải đi tìm công việc từ bên ngoài để có thêm thu nhập và không có thời gian để thực hiện các hoạt động BVR có hiệu quả. Nếu đoạn này nói chung về Việt Nam, thì cần trích nguồn
Từ những năm 2000, đặc biệt là từ sau khi có chủ trương sắp xếp đổi mới nông - lâm trường quốc doanh sang thành lập các công ty nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất kinh doanh, thì phần lớn diện tích rừng tự nhiên của Mít Cát đều thuộc sự quản lý của Lâm trường Khe Giữa và Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong. Phần đất mà dân bản quản lý chỉ còn lại là một phần đất nương đang canh tác, đất nhà ở và một ít đất ven khe Mít Cát nơi người dân vẫn khai hoang để trồng lúa và sắn.
Hiện nay, các hộ dân người Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát đang thiếu đất canh tác trầm trọng. Diện tích đất canh tác bình quân của mỗi hộ (4-5 khẩu) khoảng 0,2 ha, chủ yếu là đất trồng màu ven suối. Các hộ cũng được giao đất lâm nghiệp, nhưng diện tích rất hạn chế, với mức bình quân khoảng 0,5 ha/hộ. Số hộ được giao đất lâm nghiệp chỉ chiếm 46% tổng số hộ tại bản, do quỹ đất của xã không còn. Tại bản Mít Cát, 100% số hộ thiếu đất canh tác, gây khó khăn cho cuộc sống của họ. Tỷ lệ hộ nghèo trong các hộ dân tộc Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát năm 2021 lên tới 78% cao hơn 2 lần so với tỷ lệ nghèo chung của toàn xã. Năm 2013, tình trạng thiếu đất rừng để sản xuất dẫn tới việc tranh chấp giữa người dân và các lâm trường cũng diễn ra phổ biến tại ba xã Ngân Thủy, Kim Thủy, Lâm Thủy của huyện Lệ Thủy, với hơn 40% người dân chưa có đất rừng sản xuất[2].
Từ thời điểm đó, cuộc sống của người Bru-Vân Kiều trở nên khó khăn hơn với nhiều thách thức. Lâm trường tăng cường quản lý bảo vệ rừng và hạn chế người dân tiếp cận khai thác sản phẩm từ rừng; dân bản không được canh tác nương rẫy luân canh như trước đây. Người dân ngày càng thiếu đất sản xuất, thiếu rừng để thực hành văn hoá tâm linh tín ngưỡng, gắn kết cộng đồng. Ngay cả việc vào rừng lấy củi, lấy sản phẩm phụ, lấy gỗ làm nhà như trước đây đều bị lâm trường, Ban Quản lý Khu dự trữ thiên nhiên hạn chế, ngăn cấm. Thậm chí theo phản ánh của người dân, nhiều diện tích đất trước đây người dân canh tác nương rẫy, sau này lâm trường lấy sử dụng trồng keo để có thu nhập cho chính cán bộ của lâm trường. Đây là một sự bất cập về quyền tiếp cận và công tác quy hoạch trong quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng. Sự thay đổi về tiếp cận đất rừng và rừng của người dân bản Mít Cát trước và sau năm 2005[3] được mô tả trong Bảng 1.
Bảng 1: Sự thay đổi về tiếp cận đất rừng và rừng của người dân
Lĩnh vực tiếp cận |
Trước năm 2005 |
Sau năm 2005 |
Đất ở |
Người dân có đủ đất để ở |
Thiếu đất ở, không được cấp thêm đất trong khi dân số ngày tăng lên |
Đất sản xuất nông nghiệp |
Mỗi hộ có từ 3 đến 4 mảnh nương rẫy để luân canh |
Không còn đất nương rẫy hoặc còn rất ít, phải vào làm trong những khu đất trống nhỏ trong rừng |
Rừng và đất rừng gần nhà |
Được tự do canh tác nương rẫy và vào rừng |
Không có quyền sử dụng. Người dân muốn làm rẫy phải làm lén lút ở những vùng đất trống sâu trong rừng |
Quản lý và sử dụng/ hưởng lợi từ rừng |
Được phép vào rừng khai thác phục vụ nhu cầu làm nhà ở và đời sống hằng ngày |
Không được phép hoặc hạn chế theo qui định |
Nguồn: Thảo luận nhóm người dân bản Mít Cát, 2023
Như vậy, từ khi lâm trường Khe Giữa và Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong tăng cường công tác quản lý thì quyền tiếp cận tài nguyên rừng và đất truyền thống của dân bản đã bị hạn chế. Tình trạng thiếu đất rừng sản xuất và thiếu đất ở trở nên vấn đề cấp bách, phổ biến ở bản Mít Cát nói riêng và xã Kim Thủy nói chung. Cho đến nay kể cả khu rừng tâm linh (Lapay) và nhiều khu rừng khác trong ranh giới truyền thống của bản mà cộng đồng thường tiếp cận quản lý bảo vệ để lấy lâm sản vẫn chưa được giao cho bản. Năm 2016, Nhà nước đã thu hồi một phần đất rừng của lâm trường để giao lại cho các hộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân. Một mặt, nhu cầu sử dụng sản phẩm từ rừng của người dân cần không gian rộng lớn hơn rất nhiều so với diện tích được giao, mặt khác người dân đang nghèo cần có thu nhập trước mắt, nhưng quá trình giao đất giao rừng chưa gắn với quy hoạch một số diện tích có thể kết hợp sản xuất nông lâm nghiệp, canh tác dưới tán rừng để bà con sản xuất, tăng thu nhập theo hướng lấy ngắn nuôi dài.
Thực tế trên đã tạo ra mâu thuẫn tại địa phương giữa người dân với các lâm trường kéo dài trong nhiều năm. Phần lớn diện tích rừng mà bản sử dụng trước đây đã thuộc về lâm trường quản lý. Việc dân bản không tham gia trực tiếp bảo vệ rừng tạo ra kẽ hở cho những người ngoài vào khai thác gỗ, phá rừng, phá luật lệ của bản;. Người dân nơi đây có đời sống gắn chặt với rừng. Chính họ là những người thường xuyên vào rừng tìm kiếm lâm sản và cũng là người trông coi bảo vệ rừng hiệu quả, kịp thời phát hiện tình trạng chặt phá rừng trái phép. Theo kết quả điều tra, phần lớn người dân trong bản vẫn vào rừng khai thác lâm sản phụ, săn bắt bao gồm cả nam, nữ và già, trẻ; trong đó những người trong độ tuổi lao động là thường xuyên hơn. Tuy nhiên, do việc vào rừng đang ngày càng bị hạn chế, và do rừng không thuộc quyền quản lý của dân, nên ý thức về bảo vệ rừng đã có phần bị suy giảm đáng kể. Hậu quả là các hoạt động sinh kế dựa vào rừng như săn bắt, thu hái được người dân thực hiện không có kế hoạch, không bảo tồn, khai thác mang tính tận thu. Điều này dẫn đến tài nguyên rừng bị suy giảm nhiều. Nhiều loại sản phẩm rừng ngày càng khan hiếm so với trước đây; người dân phải đi vào rừng lâu hơn và xa hơn thì mới khai thác được.
Hoạt động sinh kế gắn với rừng
Tuy là một bản ở vùng sâu vùng xa, người dân đã lựa chọn định cư ở đây vì có rừng tự nhiên gần và nhiều đồi để làm nương rẫy và khai thác lâm sản. Vùng đất gần khe suối, bằng phẳng được sử dụng để làm nhà ở và chăn thả gia súc, gia cầm, một phần nhỏ có nước được cải tạo thành ruộng. Theo bảng khảo sát, người dân tại bản Mít Cát có 10 nguồn thu từ rừng, đất rừng chính để duy trì cuộc sống. Rừng cũng cung cấp củi đun, gỗ và lá để làm nhà cho người dân.
Bảng 2: Khảo sát nguồn thu gắn với rừng của người dân tại bản Mít Cát
TT |
Nguồn |
Thời điểm khai thác |
|||||||||||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
||
1 |
Măng |
x |
x |
|
|
|
|
x |
x |
|
|
|
|
2 |
Nấm, rau rừng |
|
|
|
x |
x |
x |
x |
x |
x |
|
|
|
3 |
Ngô |
x |
x |
|
|
|
|
|
|
|
|
x |
|
4 |
Lúa rẫy |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
x |
|
|
5 |
Sắn |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
x |
7 |
Mật ong |
|
|
x |
x |
x |
x |
|
|
|
|
|
|
8 |
Bẫy thú nhỏ |
|
|
|
|
|
|
|
|
x |
|
|
|
8 |
Mây |
x |
x |
x |
|
|
|
|
|
|
x |
x |
x |
10 |
Nấm lim |
|
|
|
|
|
|
|
x |
x |
x |
|
x |
11 |
Dây bổ máu |
x |
x |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Nguồn: Điều tra thực tế tại bản Mít Cát, 2023
Theo khảo sát (Bảng 2), người dân tộc Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát, xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, có nguồn thu từ rừng và đất nương rẫy trong phần lớn các tháng trong năm. Trong 10 loại sản phẩm chính, có 5 loại cung cấp lương thực và thực phẩm cho người dân, bao gồm gạo và các loại rau. Có 5 loại khác là sản phẩm khai thác rừng tự nhiên để bán và tạo thu nhập cho người dân. Mỗi ngày, một người vào rừng có thể khai thác được 20 kg măng. Mỗi năm có hai đợt thu hoạch măng trong bốn tháng (tháng 1, 2 và tháng 7, 8). Đất nương rẫy cũng cung cấp sắn và lúa đủ cho dân bản. Hàng năm vào tháng 12,1, 2, người dân có thu nhập đáng kể từ cây mây. Mỗi người thu hoạch khoảng 50 kg/ngày với giá bán khoảng 4.000 đồng/kg mây tươi và thu nhập mỗi ngày được 200.000 đồng (trong khoảng 6 tháng rải đều trong năm). Hàng năm những hộ gia đình (có đi lấy mật và săn bắn) vào vụ ong rừng có thể thu được khoảng 20 lít và bán ra tương đương 4 triệu đồng. Ngoài ra, hoạt động săn bắt thú rừng cũng tạo thu nhập khoảng 5 triệu đồng/năm cho người dân.
Theo anh Hồ Văn N[4], một người dân của bản Mít Cát thì để có tiền trang trải cho cuộc sống hàng ngày, nuôi bốn đứa con nhỏ đang tuổi đi học cũng như để dành khi ốm đau, anh cũng như nhiều đàn ông trong bản phải thường xuyên vào rừng. Việc chính của họ là tìm mật ong, lấy mây và đặt bẫy thú rừng. Mùa mật ong thường bắt đầu vào tháng 4 và kéo dài đến tháng 8 âm lịch, trong khi hoạt động bẫy thú thường vào các tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Còn lại các công việc như hái măng, hái nấm, lấy cây thuốc hay làm rẫy thì phần lớn do phụ nữ đảm nhận. Như vậy, người dân có thêm thu nhập hàng năm bình quân khoảng 10-15 triệu đồng từ rừng. Điều này cho thấy rừng là nguồn thu nhập quan trọng đối với người dân bản Mít Cát, giúp họ duy trì cuộc sống ổn định.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Trước những năm 2000, người dân tộc Bru-Vân Kiều ở bản Mít Cát có sinh kế chủ yếu dựa vào phát nương làm rẫy, khai thác rừng và canh tác nông nghiệp ở các thung lũng hẹp ven sông, suối. Họ trồng sắn, rau, đậu và các loại cây khác để cung cấp lương thực và thực phẩm. Khi nhà nước vận động họ khoanh nuôi bảo vệ rừng, không phát nương làm rẫy, định canh định cư, họ đã thực hiện theo. Tuy nhiên, chính quyền không bố trí được nguồn đất canh tác thay thế cho họ. Diện tích đất ruộng màu ven suối rất nhỏ, không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống của các hộ trong bối cảnh dân số tăng cao. Hiện tại, hàng năm nhà nước phải hỗ trợ lương thực cứu đói cho họ.
Người dân đã nhiều lần kiến nghị với chính quyền xã và lâm trường về tình trạng thiếu đất sản xuất nhưng không được giải quyết. Sau khi đường Hồ Chí Minh được hoàn thành vào năm 2005, tình trạng xâm canh đất của lâm trường để trồng sắn và khai thác gỗ từ rừng tự nhiên ngày càng gia tăng. Hiện nay, nhiều hộ gia đình tại bản Mít Cát có thành viên tham gia khai thác gỗ từ rừng tự nhiên. Cũng tại bản Mít Cát, lâm trường đã khoán gần 20 ha cho các hộ trong để trồng rừng theo Chương trình 661. Tuy nhiên, cho đến nay, phần diện tích này vẫn chưa được khai thác do xảy ra mâu thuẫn giữa hai bên: cả người dân và lâm truòng đều cho rằng đó là rừng của mình.
Theo Nghị định 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ, lâm trường đã triển khai khoán trồng rừng cho các hộ. Tuy nhiên, theo phản ánh của người dân địa phương, phần lớn diện tích khoán lại được giao cho các hộ bên ngoài cộng đồng, thậm chí người Kinh ở nơi khác. Điều này đã gây ra sự bức xúc cho người dân và chính quyền xã Kim Thủy. Người dân vẫn thiếu đất canh tác để ổn định cuộc sống. Lòng tin của người dân vào lâm trường và chính quyền địa phương đang suy giảm, làm nảy sinh nguy cơ về xung đột đất đai, mất ổn định xã hội. Các hộ dân trong bản chưa được đảm bảo quyền quản lý, sử dụng rừng truyền thống của bản để thực hành văn hóa tín ngưỡng, thực hành sinh kế truyền thống gắn với rừng. Người dân địa phương ngày càng bị hạn chế quyền tiếp cận rừng ở khu vực do lâm trường và Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong quản lý (trên thực tế vẫn là rừng do bản sử dụng) để trồng keo, thu hái lâm sản, chăn thả gia súc, lấy gỗ làm nhà… Rừng có nguy cơ bị chặt phá, nguồn lâm sản cạn kiệt dưới áp lực phá rừng lấy đất sản xuất và gia tăng khai thác của công ty lâm nghiệp và người bên ngoài khai thác trái phép. Những nỗ lực của chính quyền địa phương về giao đất giao rừng cho cộng đồng bản, khoán bảo vệ rừng cho người dân trong thời gian qua vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả tích cực, chưa giải quyết được nhu cầu cuộc sống hàng ngày cho người dân. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có 3 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này, bao gồm:
Người dân thiếu đất canh tác: Đây là nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn đất đai. Người dân ở đây phải sống trong cảnh thiếu đất sản xuất nghiêm trọng, dẫn đến tỷ lệ nghèo cao, đặc biệt là ở các hộ Bru-Vân Kiều tại bản Mít Cát. Trước đây, người dân sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy. Tuy nhiên theo thời gian, khi chính sách giao đất giao rừng được thực hiện, người dân đã mất đi nguồn sinh kế truyền thống mà nguồn sinh kế mới thay thế chưa đáp ứng được. Diện tích đất lâm nghiệp do lâm trường và Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong quản lý đã chiếm phần lớn diện tích đất sản xuất của người dân. Người dân chỉ còn lại những diện tích ít ỏi gần sông suối, nhưng lại bị sạt lở do lũ lụt. Do thiếu đất sản xuất và thu nhập, người dân buộc phải canh tác trên đất của lâm trường.
Bất cập trong giao đất rừng: Thực trạng hiện nay cho thấy có sự bất cập trong việc sử dụng và quản lý đất rừng giữa lâm trường và người dân. Lâm trường chiếm giữ phần lớn diện tích đất rừng, nhưng lại sử dụng không hiệu quả. Ngược lại, người dân lại thiếu đất sản xuất, dẫn đến cuộc sống khó khăn. Điều này đã gây ra sự bức xúc không chỉ cho người dân nghèo, mà còn cho chính quyền địa phương. Ông Hồ Văn C 79 tuổi tâm tư: “Người dân sống dọc đường Hồ Chí Minh, nhìn ra trước cửa nhà là thung lũng hẹp, mỗi hộ chỉ có 2-3 sào đất màu nhưng lại bị mất do sạt lở. Nhìn ra sau cạnh nhà, đất rừng rộng bao la nhưng lại là của lâm trường, bà con muốn có thêm một mảnh nhỏ để trồng sắn cũng không được. Sản xuất không đủ ăn nên năm nào Nhà nước cũng phải hỗ trợ lương thực cứu đói”[5].
Mâu thuẫn liên quan đến đất đai: Người dân đã nhiều lần kiến nghị với chính quyền xã và lâm trường về tình trạng thiếu đất sản xuất, nhưng không được giải quyết. Khiếu kiện về đất đai giữa người dân và lâm trường cũng đã xảy ra, nhưng vẫn chưa được giải quyết. Người dân và chính quyền xã, huyện đã yêu cầu lâm trường cấp đất cho dân để ổn định cuộc sống, nhưng lâm trường không đồng ý. Người dân đã suy giảm sự tin tưởng vào lâm trường và chính quyền địa phương, và đã tự lấn chiếm đất của lâm trường để canh tác. Động lực này dường như ngày càng lớn, do sức ép về gia tăng dân số và lợi ích kinh tế của hàng hóa nông lâm sản ngày càng gia tăng.
KẾT LUẬN
Người dân Bru-Vân Kiều tự quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả dựa vào luật tục, vì cả cộng đồng tham gia bảo vệ rừng. Người dân hiểu bảo vệ rừng là bảo vệ chính cuộc sống của dân bản. Tuy nhiên, cuộc sống của dân bản được ổn định, thân thiện với môi trường rừng khi và chỉ khi họ là chủ rừng đích thực. Hiện nay, phần lớn rừng và đất rừng xung quanh bản, trong ranh giới truyền thống của bản đang do lâm trường Khe Giữa (thuộc Công ty TNHH MTV Lâm công nghiệp Long Đại) và Ban quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong quản lý. Trên thực tế, các lâm trường quốc doanh hoạt động như một tổ chức mang tính trung gian. Thông thường, họ nhận quản lý đất rồi lại giao, khoán đất rừng cho hộ gia đình, nông trường viên, hay người dân tại các địa phương chăm sóc, để nộp một phần lợi ích cho lâm trường. Có nơi còn cắt đất của lâm trường cho các công ty tư nhân thuê để phát triển cây công nghiệp vì mục đích lợi nhuận, thay vì ưu tiên chia đất cho người dân để họ có sinh kế làm ăn, vươn lên thoát nghèo. Nếu người dân, cộng đồng bản không tham gia quản lý, rừng sẽ bị khai thác nhanh chóng, khó kiểm soát, dẫn đến hệ sinh thái và văn hoá tộc người gắn với rừng sẽ bị mai một, mất đi.
Những nỗ lực của chính quyền địa phương về giao đất giao rừng cho cộng đồng thôn bản, khoán bảo vệ rừng cho hộ dân trong thời gian qua vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả tích cực. Người dân tham gia bảo vệ rừng còn phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ ngắn hạn của dự án. Giao đất giao rừng cho bản chưa gắn với quy hoạch vùng có thể kết hợp sản xuất nông lâm nghiệp và hướng dẫn tổ chức sản xuất, nên chưa giải quyết được nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lâu dài cho người dân.
Người dân tại bản Mít Cát là những người sống gần rừng, thường xuyên vào rừng và họ cũng là những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức bản địa về rừng nơi họ đang sống, góp phần bảo vệ rừng tốt. Dân bản được tạo quyền tiếp cận rừng sẽ nâng cao ý thức bảo vệ và sử dụng bền vững các nguồn lợi từ rừng mang lại, qua đó giảm áp lực lên rừng, công tác bảo tồn và giữ gìn hiệu quả hơn.
Nghiên cứu này cho rằng để tránh tình trạng các tổ chức được giao quản lý rừng tự nhiên làm hạn chế người dân địa phương tiếp cận rừng do họ quản lý, cần có quy định đảm bảo quyền tiếp cận rừng tự nhiên (quyền đi vào rừng, thu hái lâm sản, lấy củi, lấy gỗ gia dụng, chăn nuôi có kiểm soát…) của người dân địa phương trên cơ sở có quy chế cam kết giữa tổ chức nhà nước và cộng đồng dân cư địa phương. Khi tổ chức giao đất giao rừng cho các tổ chức kinh tế, cho cộng đồng cần đi kèm quy hoạch vùng bảo vệ rừng, vùng khoanh nuôi làm giàu rừng, vùng rừng kinh tế (trồng rừng), vùng nông lâm kết hợp, vùng canh tác dưới tán rừng, vùng canh tác nông nghiệp, vùng chăn thả gia súc…Cuối cùng, cần có các chính sách hỗ trợ khác để bảo vệ rừng và phát triển rừng như: Chi trả công tác bảo vệ rừng (nếu không có dịch vụ môi trường rừng), hỗ trợ phục hồi rừng và phát triển sinh kế rừng cho cộng đồng sống gần rừng, phụ thuộc vào rừng, cũng như làng bản tham gia quản lý, bảo vệ rừng./.
Tài liệu tham khảo
Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 28/NQ-TW về việc sắp xếp, đối mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh.
Việt Hùng (2013), Mâu thuẫn đất rừng: Dân bức xúc vì “địa chủ” kiểu mới trên trang https://www.vietnamplus.vn/mau-thuan-dat-rung-dan-buc-xuc-vi-dia-chu-kieu-moi/202696.vnp truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2023.
Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2017), Các dân tộc ở Việt Nam, tập 3 nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ-Me, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
UBND xã Kim Thủy (2022), Số liệu thống kê kinh tế-xã hội của xã Kim Thủy qua các năm 2020-2023.
UBND xã Kim Thủy (2020), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2020, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm 2021.
UBND xã Kim Thủy (2021), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2021, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm 2022.
UBND xã Kim Thủy (2022), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2022, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm 2023.
Yasmi và cộng sự (2010), Conflicts over Forests and Land in Asia: Impacts, Causes and Management, Issue Paper. RECOFTC.
Ngày nhận bài: 05/3/2025; Ngày phản biện: 12/3/2025; Ngày duyệt đăng: 15/3/2025 |
[1] Thảo luận nhóm nam nữ 5 người Bru-Vân Kiều bản Mít Cát, tháng 3/2023
[2] https://www.vietnamplus.vn/mau-thuan-dat-rung-dan-buc-xuc-vi-dia-chu-kieu-moi/202696.vnp trích dẫn lại theo quy định của tạp chí
[3] Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 28 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới nông lâm trường quốc doanh và Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực.
[4] Phỏng vấn sâu nam trung niên người Bru-Vân Kiều hay đi rừng, tháng 3/2023.
[5] Phỏng vấn sâu người Bru-Vân Kiều cao tuổi bản Mít Cát, tháng 3/2023.