Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý nhà nước đối với việc tham gia các FTA thế hệ mới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

21/03/2025 00:30

Việt Nam đã từng bước tham gia các FTA và đến nay đã ký kết 17 FTA, trong đó có 3 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA).

Lâm Thị Quỳnh Anh

Bộ Công Thương

Tóm tắt

Bài viết phân tích kinh nghiệm của các quốc gia như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore trong quản lý nhà nước nhằm thực thi hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Qua đó, rút ra các bài học quan trọng cho Việt Nam, bao gồm: Hoàn thiện thể chế pháp lý; Nâng cao năng lực điều phối liên ngành; Hỗ trợ doanh nghiệp trong hội nhập; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và Tận dụng tối đa các ưu đãi từ FTA. Việc áp dụng các kinh nghiệm quốc tế phù hợp sẽ giúp Việt Nam nâng cao hiệu quả thực thi các FTA, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Từ khóa: quản lý nhà nước, hiệp định thương mại tự do, FTA

Summary

The article analyzes the experiences of countries such as Japan, Korea, and Singapore in state management to implement new-generation free trade agreements (FTAs) effectively. Thereby, it draws crucial lessons for Vietnam, including Perfecting legal institutions, Improving inter-sectoral coordination capacity, Supporting businesses in integration, Developing high-quality human resources, and Making the most of incentives from FTAs. Applying appropriate international experiences will help Vietnam improve the effectiveness of FTA implementation, promote sustainable economic growth, and deeply integrate into the global economy.

Keywords: state management, free trade agreements, FTA

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc tham gia các FTA là một xu hướng nổi bật trong thương mại quốc tế từ những năm 90 trở lại đây. Nắm bắt được xu thế đó, Việt Nam đã từng bước tham gia các FTA và đến nay đã ký kết 17 FTA, trong đó có 3 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA). Việc tham gia các FTA đang đặt Việt Nam trước những yêu cầu mới về công tác quản lý nhà nước nhằm thực thi và tận dụng hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Do đây là một lĩnh vực mới, nên rất cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế để xem xét, vận dụng vào quá trình quản lý nhà nước về thực thi các FTA thế hệ mới ở Việt Nam.

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Nhật Bản

Khái quát về việc tham gia các FTA của Nhật Bản

Nhật Bản là một trong những nước tham gia ký kết FTA nhiều nhất trên thế giới. Từ một nước vốn trung thành với các hiệp định thương mại đa phương, nhưng trong bối cảnh vòng đàm phán Doha của WTO lâm vào bế tắc, từ những năm 2000 trở đi, Nhật Bản đã nhanh chóng chuyển sang tìm kiếm các đối tác để ký kết các FTA song phương để một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, mặt khác tăng cường sức ảnh hưởng của mình đối với các nước trong khu vực châu Á, cũng như trên thế giới (Phạm Thị Xuân Mai, 2012). Khởi đầu của quá trình này là việc Nhật Bản ký kết FTA với Singapore vào tháng 01/2002. Kể từ đó đến nay, Nhật Bản đã ký kết 20 FTA, bao gồm 17 FTA song phương và 3 FTA khu vực, trong đó có 2 FTA thế hệ mới là Hiệp định Hiệp định Đối tác Kinh tế giữa Nhật Bản và EU (EPA) và CPTPP.

Sở dĩ EPA giữa EU và Nhật Bản được coi là một FTA thế hệ mới bởi hiệp định này không chỉ bao gồm cam kết xóa bỏ thuế quan, mà còn có cả các biện pháp xuyên biên giới, các quy định liên quan đến thủ tục hải quan và quy tắc xuất xứ, tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chỉ dẫn địa lý, tiếp cận tốt hơn với thủ tục đấu thầu mua sắm… Hiệp định còn thể hiện nỗ lực chung của EU và Nhật Bản trong việc phát triển các mô hình cho các FTA thế hệ mới khi bao gồm các điều khoản về phát triển bền vững. Trước khi EPA được phê chuẩn, Nhật Bản đã thiết lập một khuôn khổ liên bộ để giải quyết việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững trong EPA, bao gồm cả việc phê chuẩn các công ước cốt lõi của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Đối với Hiệp định TPP/CPTPP, đây được nhận định là một FTA thế hệ mới do nội dung không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như: cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước… Bên cạnh đó, hiệp định này còn đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Việc CPTPP được ký kết và có hiệu lực thể hiện quyết tâm cao của các nước thành viên trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại và hội nhập sâu rộng trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó nổi lên vai trò của Nhật Bản, là thành viên đóng vai trò chủ chốt trong thúc đẩy CPTPP.

Quản lý Nhà nước về các FTA và các FTA thế hệ mới tại Nhật Bản

Tại Nhật Bản, có 3 bộ đóng vai trò then chốt trong hoạch định chính sách, đàm phán và thực thi các FTA, đó là: Bộ Ngoại giao (MOFA), Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) và Bộ Tài chính (MOF).

Theo pháp luật Nhật Bản, Bộ Ngoại giao (MOFA) là cơ quan đại diện cho Nhật Bản trong các cuộc đàm phán FTA. Vai trò chính thức của MOFA là điều phối chính sách FTA giữa các Bộ, chủ trì các cuộc thảo luận và đại diện chính phủ tham gia vào quá trình đàm phán. Trong MOFA, Phòng Hợp tác Kinh tế của Cục Kinh tế chịu trách nhiệm về chính sách FTA.

Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) là cơ quan có tiếng nói quan trọng hàng đầu trong việc quyết định đàm phán FTA. Đây cũng là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi chính sách của Nhật Bản theo hướng tập trung vào các FTA và phát triển ngoại thương. Ngay từ đầu, METI đã ủng hộ và tiến hành vận động cho việc đàm phán, ký kết các FTA. METI đại diện cho mối quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp đối với các FTA, qua đó tác động tới nội các và Văn phòng Thủ tướng. Trong cơ cấu tổ chức của METI, có 2 cơ quan liên quan nhiều nhất tới chính sách FTA là Cục Thương mại và Cục Công nghiệp. Cục Thương mại không đại diện trực tiếp cho các ngành sản xuất mà mang tính độc lập, chịu trách nhiệm tổng hợp thông tin từ Cục Công nghiệp và các cCục khác để đưa ra chính sách cuối cùng. Trong khi đó, Cục Công nghiệp chịu trách nhiệm điều phối nhu cầu và lợi ích của các ngành sản xuất. Cục Công nghiệp liên hệ thường xuyên với Keidanren (Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản) và các Ủy ban công tác về các FTA tiềm năng để lấy ý kiến của các tổ chức này đối với việc đàm phán các FTA.

Bộ Tài chính Nhật Bản (MOF) giám sát và chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến thuế quan và thủ tục hải quan. Đây là một trong 3 bộ liên quan mật thiết đến chính sách FTA. Bộ Tài chính đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như quy tắc xuất xứ. Do thuế quan chỉ là một phần trong tổng số thu, Bộ không phản đối việc tự do hóa hơn nữa nhưng ủng hộ việc đơn giản hóa thuế quan và quan tâm đến tác động của việc thực thi các FTA.

Để thực thi các FTA, Nhật Bản đã tiến hành điều chỉnh các đạo luật trong nước để phù hợp với các cam kết với các đối tác. Cụ thể, đối với CPTPP, để CPTPP có hiệu lực tại Nhật Bản, tổng cộng 10 đạo luật đã được sửa đổi để bao gồm những quy định mới và các biện pháp bảo vệ trước những thay đổi mà CPTPP đem lại, ví dụ về quyền tác giả và bảo hộ thương hiệu. Theo điều khoản mới trong CPTPP, quyền này duy trì trong 70 năm sau khi tác giả/người sáng lập qua đời, dài hơn so với khoảng thời gian 50 năm theo quy định hiện hành tại Nhật Bản (Nguyễn Ngọc Hà, 2021).

Trong quá trình tham gia các FTA, Chính phủ Nhật Bản rất chú trọng đến việc tuyên truyền, phổ biến thông tin về FTA cho cộng đồng và doanh nghiệp. Để phục vụ cho việc tham gia EPA và TPP (tiền thân của CPTPP), Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức các phiên họp giao ban trên toàn quốc nhằm nâng cao hơn nữa sự hiểu biết của công chúng về các Hiệp định này ( Ngày 23/3/2018 - Địa điểm: TP. Kochi, tỉnh Kochi; Ngày 15/3/2018 - Địa điểm: TP. Naha, tỉnh Okinawa; Ngày 27/02/2018 - Địa điểm: TP. Yamagata, tỉnh Yamagata; Ngày 20/11/2017 - Địa điểm: TP. OKama, tỉnh OKama; Ngày 9/11/2017 - Địa điểm: TP. Sendai, tỉnh Miyagi; Ngày 30/10/2017 - Địa điểm: TP. Kagoshima, tỉnh Kagoshima; Ngày 27//10/2017 - Địa điểm: TP. Fukushima, tỉnh Fukushima; Ngày 04/10/2017 - Địa điểm: TP. Kanazawa, tỉnh Ishikawa; Ngày 31/8/2017 - Địa điểm: Sapporo, Hokkaido). Tại các cuộc họp, Bộ Ngoại giao đã phổ biến các tài liệu cung cấp thông tin về Hiệp định và tác động của việc thực thi Hiệp định tới các ngành, lĩnh vực kinh tế, đồng thời các thông tin cũng được phổ biến rộng rãi trên trang web của Bộ Ngoại giao (Ministry of Economy, Trade and Industry of Japan, 2021).

Đối với Hiệp định TPP, ngay sau khi 12 nước tuyên bố kết thúc đàm phán TPP vào ngày 05/10/2015, Nhật Bản ngay lập tức thành lập Nhóm đặc trách về TPP nhằm triển khai các hành động thực hiện 3 mục tiêu: “phát triển thị trường thông qua việc đẩy mạnh thực thi TPP”, “cải thiện năng suất, phục hồi ngành công nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng thông qua TPP” và “giảm bớt những lo ngại xung quanh TPP và tăng cường cơ cấu ngành nông nghiệp.'' Ngày 25/11 cùng năm, Nhật Bản đã công bố ''Đề cương chính sách toàn diện liên quan đến TPP'' để thực hiện những mục tiêu này. Thành viên của Nhóm đặc trách là các quan chức chính phủ, chính quyền địa phương và các phòng thương mại và công nghiệp. Nhóm đặc trách sẽ hỗ trợ các lĩnh vực như phát triển sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, cũng như giúp các công ty tìm cách mở rộng kinh doanh ở thị trường các nước thành viên TPP.

Hàn Quốc

Khái quát về tình hình tham gia các FTA của Hàn Quốc

Là một quốc gia ở Đông Á với nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế và thị trường tiêu dùng nội địa quy mô nhỏ, Hàn Quốc đã phát triển thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới nhờ tận dụng lợi thế của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại mà nổi bật là việc tham gia tích cực vào các FTA và các cuộc đàm phán thương mại đa phương khuôn khổ WTO. Tính đến thời điểm hiện nay, Hàn Quốc đã có quan hệ FTA với 60 quốc gia trên thế giới trong đó có 21 FTA đã có hiệu lực thực thi và 02 FTA đã ký kết, nhưng chưa có hiệu lực. Tuy vậy đến nay, Hàn Quốc mới chỉ tham gia duy nhất một FTA thế hệ mới là FTA giữa Hàn Quốc và EU (EU-ROK FTA).

Được ký kết vào năm 2010 và chính thức có hiệu lực vào năm 2015, EU-ROK FTA là FTA đầu tiên của EU ở châu Á và là FTA đầu tiên của Hàn Quốc với một trong ba cường quốc kinh tế lớn (trước Mỹ và Trung Quốc). Ngoài việc là FTA 2, trong lịch sử tại thời điểm ký kết, đây còn là FTA đầu tiên trong chuỗi các FTA thế hệ mới mà sau này EU ký kết với các đối tác toàn cầu khác, trong đó có Canada và Nhật Bản. Đây được coi là FTA “thế hệ mới” do phạm vi đàm phán bao gồm nhiều lĩnh vực mà trước đây các FTA truyền thống chưa hề đề cập tới, như các biện pháp bảo vệ sở hữu trí tuệ mạnh mẽ hơn và chương thương mại và phát triển bền vững (T&SD) với một số cam kết ràng buộc về mặt pháp lý về quản trị liên quan đến môi trường và lao động.

FTA EU-Hàn Quốc, loại bỏ khoảng 99% thuế quan, đã có tác động rõ ràng đến khối lượng thương mại song phương của hai bên. Tổng thương mại giữa EU và Hàn Quốc tăng gần 50%, từ khoảng 60 tỷ EUR lên 90 tỷ EUR trong giai đoạn 2010-2020. Nhờ vậy, đến năm 2020, EU đã trở thành đối tác lớn thứ 3 của Hàn Quốc và Hàn Quốc được ghi nhận là đối tác thương mại lớn thứ 9 của EU.

Quản lý Nhà nước về các FTA và các FTA thế hệ mới tại Hàn Quốc

Từ năm 2013 trở về trước, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Thương mại Hàn Quốc chịu trách nhiệm đàm phán thương mại và ký kết các hiệp định liên quan đến thương mại với nước ngoài. Sau năm 2013, Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc được thành lập tách riêng với Bộ Ngoại giao và bao gồm chức năng đàm phán, quản lý thực thi FTA. Tại Hàn Quốc, Kiểm toán Quốc gia đóng vai trò là cơ chế giám sát để đảm bảo các cơ quan có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận trong các FTA.

Để hỗ trợ cho việc thực thi hiệu quả và tận dụng tốt các FTA, sau khi các FTA có hiệu lực, Hàn Quốc đã tổ chức nhiều chương trình hỗ trợ bao gồm: đào tạo và cung cấp thông tin về các FTA, tư vấn và tổ chức hội thảo giúp các doanh nghiệp hiểu rõ và tăng cường tận dụng các ưu đãi trong các hiệp định. Dù vậy, trong giai đoạn 2007-2009, chính phủ Hàn Quốc nhận thấy rằng mặc dù có nhiều hiệp định về thương mại và đầu tư được ký kết trong giai đoạn này, nhưng chỉ có một số ít các doanh nghiệp có thể được hưởng lợi ích từ các FTA do một số chương trình hỗ trợ không hiệu quả trong khi một số khác được thiết kế chỉ nhằm mục đích nâng cao thái độ tích cực của công chúng đối với các FTA. Dựa trên nhiều cuộc khảo sát khác nhau về các rào cản thể chế trong việc tận dụng FTA của 12 công ty Hàn Quốc, Chính phủ Hàn Quốc, chủ trì là Bộ Chiến lược và Tài chính (MOSF), đã xây dựng một cơ chế hỗ trợ kinh doanh toàn diện có tên là “Kế hoạch tăng cường tận dụng FTA”. Trên cơ sở đó, chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Cơ quan điều chỉnh chính sách và xúc tiến FTA (FTAPPAA) vào tháng 6/2007. FTAPPAA và MOSF đã thiết lập một gói hỗ trợ FTA quốc gia bao gồm các chính sách, thuế quan ưu đãi và quy tắc xuất xứ, các chuyên gia về FTA, tư vấn về FTA, các trung tâm hỗ trợ FTA địa phương và tổng đài FTA (Bảng 1).

Bảng 1: Nội dung gói hỗ trợ FTA của Hàn Quốc

Khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp

Thông tin FTA cho doanh nghiệp

Chuyên gia FTA, tư vấn về các FTA

Hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp

Duy trì mạng lưới FTA

Nội dung chính

Các cuộc họp thường xuyên và đột xuất và các cuộc khảo sát với các ngành công nghiệp, đại diện công ty

- Trang thông tin về thuế quan, Quy tắc xuất xứ

- Hội nghị, hội thảo

- Sách hướng dẫn, cẩm nang, tờ rơi về FTA

- Đào tạo qua mạng về FTA

- Lớp học về FTA trong trường Đại học

- Khóa đào tạo cho các nhà tư vấn và chuyên gia FTA

- Tư vấn về FTA cho doanh nghiệp

- Tổng đài FTA

- Trung tâm Hỗ trợ FTA địa phương

- Trung tâm tích hợp về quy tắc xuất xứ cho doanh nghiệp

- Trung tâm tích hợp thông tin về FTA

Cơ quan chính phủ

FTAPPAA và các cơ quan liên quan; Trung tâm Tận dụng FTA

FTAPPAA và các cơ quan liên quan

FTAPPAA và các cơ quan liên quan, các trường đại học, diễn đàn doanh nghiệp, hiệp hội học thuật

Các cơ quan quốc gia liên quan, môi giới hải quan, FTAPPAA

Dịch vụ Hải quan Hàn quốc, Trung tâm về Quy tắc xuất xứ, Phòng Thương mại, KITA…

Nguồn: I. Cheong (2014)

Năm 2010, Trung tâm Tận dụng FTA Quốc gia (FTAUC) trực thuộc FTAPPAA được thành lập nhằm cụ thể hóa các chính sách, mục tiêu hàng năm của FTAAPPAA. Cùng với đó, các trung tâm hỗ trợ FTA được thành lập tại các khu vực để hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương tận dụng các FTA. Nhờ những nỗ lực trên, tỷ lệ tận dụng FTA của Hàn Quốc đã tăng đáng kể từ 20% lên 60% vào năm 2013 (I. Cheong, 2014). Tính đến quý 3 năm 2013, trong số các đối tác trong FTA của Hàn Quốc, hiệp định được sử dụng nhiều nhất trong thương mại xuất khẩu là với Canada, ở mức gần 97%, tiếp theo là EU với tỷ lệ sử dụng 90%.

Bảng 2: Vai trò chính của Trung tâm Tận dụng FTA Quốc gia của Hàn Quốc (FTAUC)

Vai trò chính

Chi tiết hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp

Điều phối, phối hợp

- Điều phối, phối hợp vai trò của các bộ, ngành, cơ quan và tổ chức liên quan trong hỗ trợ thực thi FTA

Khảo sát, quản lý

- Tỷ lệ tận dụng FTA, các rào cản đối với việc tận dụng FTA

- Quản lý chương trình hỗ trợ FTA cho doanh nghiệp

Thông tin về FTA

Cổng thông tin, sách, ấn phẩm, tờ rơi

Tư vấn

- Tư vấn về thuế quan, quy tắc xuất xứ, marketing ở nước ngoài bởi các chuyê gia

Giáo dục, đào tạo

- Hệ thống đào tạo qua mạng về FTA

- Các lớp học về FTA bậc đại học và cao học

- Khóa đào tạo dành cho các chuyên gia, tư vấn viên về FTA

Hội nghị, hội thảo

- Các sự kiện khác nhau để đào tạo doanh nghiệp (cấp quốc gia, địa phương hoặc ở các nước đối tác FTA)

Nguồn: I. Cheong, 2014

Singapore

Khái quát tình hình tham gia các FTA của Singapore

Từ một quốc gia nhỏ bé, hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, dân cư thưa thớt, Singapore đã vươn mình trở thành một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới. Có được sự phát triển thần kỳ này chính là nhờ chính sách phát triển kinh tế của Singapore tập trung vào những lĩnh vực then chốt như thương mại, dịch vụ, xây dựng, logistic… và trên hết, Singapore chủ trương thực hiện tự do hóa thương mại trên cả 3 cấp độ đa phương, khu vực và song phương. Đặc biệt, ngay từ rất sớm, Singapore đã quan tâm đến việc ký kết và tham gia các FTA khu vực và song phương với khởi đầu là việc tham gia Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1992. Kể từ đó đến nay, các FTA đã trở thành công cụ hữu hiệu giúp Singapore phát triển chính sách kinh tế đối ngoại và xây dựng, củng cố quan hệ chính trị, kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Tính đến nay Singapore đã ký kết 27 FTA bao gồm 15 FTA song phương và 12 FTA khu vực, đưa Singapore trở thành một trong những nước đi đầu trong việc đàm phán, tham gia các FTA. Mạng lưới các đối tác FTA của Singapore trải dài trên khắp thế giới, từ Đông Nam Á, Nam Á Trung Đông đến Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và châu Âu. Các FTA mà Singapore đã tham gia không chỉ bao gồm các cam kết trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực khác như thuận lợi hóa thương mại, đầu tư, mua sắm chính phủ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, lao động và môi trường.

Hiệp định Thương mại tự do EU - Singapore (EUSFTA) là FTA đầu tiên giữa EU và một nước thành viên của ASEAN. Đây được coi là một FTA 'thế hệ mới' do có phạm vi cam kết toàn diện, bao gồm các lĩnh vực như tự do hóa thuế quan, cắt giảm các rào cản thương mại phi thuế quan, tạo điều kiện thúc đẩy dịch vụ và đầu tư. Bên cạnh đó là các vấn đề khác liên quan đến thương mại như bảo vệ mạnh mẽ hơn đối với một số chỉ dẫn địa lý (GI) dựa trên sổ đăng ký chỉ dẫn địa lý. Hiệp định này cũng giúp cải thiện khả năng tiếp cận các cơ hội mua sắm của chính phủ và bao gồm các điều khoản liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ, cạnh tranh và phát triển bền vững.

Ngoài EUSFTA, Singapore cũng đã ký 02 FTA thế hệ mới khác tương tự như Việt Nam là FTA với Vương quốc Anh và CPTPP.

Quản lý nhà nước về các FTA và các FTA thế hệ mới tại Singapore

Cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng và thực thi chính sách FTA của Singapore là Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore (MTI). Cơ quan này phụ trách toàn bộ về việc đề xuất, đàm phán và thực thi các FTA đồng thời là đầu mối trong việc liên kết, phối hợp với các bộ, ngành khác nhằm thực thi hiệu quả các chính sách về FTA.

Để tiến tới đàm phán FTA với một đối tác cụ thể, Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore sẽ chủ trì nghiên cứu, đánh giá khả năng đàm phán FTA, gọi là giai đoạn đánh giá “tiền khả thi”. Sau khi nghiên cứu tiền khả thi hoàn tất, MTI sẽ trình Chính phủ về nội dung này và kiến nghị về khả năng đàm phán. Trên cơ sở ý kiến của MTI và các cơ quan liên quan, Chính phủ Singapore sẽ đưa quyết định chính thức về việc khởi đàm động đàm phán FTA.

Sau khi một FTA được ký kết, phê chuẩn, Singapore sẽ tiến hành sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện các cam kết FTA. Song song với quá trình này, Singapore tiến hành công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến nội dung các FTA đến cho doanh nghiệp thông qua các Hội nghị, hội thảo, đặc biệt là qua các trang thông tin điện tử. Trên trang web của MTI có riêng một chuyên mục về FTA, khi truy cập sẽ có đầy đủ thông tin cập nhật về các FTA của Singapore. Chuyên mục này được kết nối với ấn phẩm điện tử có tên: “Tất cả những điều cần biết về các FTA của Singapore.” Bên cạnh đó, cơ quan hải quan quốc gia sẽ cung cấp các thông tin về các quy tắc xuất xứ ưu đãi và các yêu cầu về chứng từ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tại trang web Enterprise Singapore có công cụ tra cứu thuế quan, mức thuế ưu đãi áp dụng cho một sản phẩm cụ thể, quy tắc xuất xứ và thủ tục nhập khẩu đối với từng quốc gia cụ thể.

Đặc biệt, MTI đóng vai trò chính trong việc tổ chức tham vấn cộng đồng về tình hình thực thi các FTA. Ví dụ từ ngày 18/4/2024 đến ngày 30/6/2024, MTI đã tiến hành lấy ý kiến đánh giá chung về CPTPP nhằm: (i) Xác định các cách thức tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư tận dụng tối đa CPTPP; (ii) Xác định các điều khoản trong Hiệp định sẽ được hưởng lợi từ việc sửa đổi hoặc cập nhật và xem xét khả năng phát triển các điều khoản hoặc Chương mới của Hiệp định; và (iii) Xác định và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực cùng quan tâm, nhằm đảm bảo Hiệp định luôn đạt tiêu chuẩn cao nhất có thể.

MTI còn đóng vai trò giám sát và theo dõi các cơ quan liên quan thực hiện đúng các cam kết trong FTA sau khi một hiệp định được Nội các phê chuẩn. Nhóm pháp lý sẽ bắt đầu sửa đổi luật trong nước theo cam kết trong Hiệp định. MTI có nhiệm vụ ban hành thường xuyên Đánh giá FTA, bao gồm đánh giá và báo cáo tiến độ cho Nội các.

Khi đất nước theo đuổi chính sách mở cửa thị trường và hội nhập khu vực, chính phủ Singapore cho rằng trách nhiệm của doanh nghiệp là phải tự điều chỉnh để vươn lên trong cạnh tranh. Trên thực tế, các doanh nghiệp Singapore đã quen thuộc với cạnh tranh toàn cầu. Cơ chế của Singapore trong việc thúc đẩy thực thi FTA chủ yếu bằng cách cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp một cách công khai, minh bạch, đẩy đủ và hỗ trợ các thủ tục thông qua sự vận hành hiệu quả của các cơ quan Chính phủ. Trong quá trình thực thi FTA, các doanh nghiệp Singapore có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ Enterprise Singapore- một cơ quan chính phủ thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore chuyên hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng cách giúp họ nâng cao năng lực, đổi mới, cải tiến và phát triển ở quy mô quốc tế. Các doanh nghiệp có thể tự tra cứu các biện pháp thuế quan và phi thuế quan trong các FTA bằng công cụ trực tuyến Tariff Fider do Enterprise Singapore cung cấp.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Một là, cần có các cơ quan, tổ chức Chính phủ chuyên trách về FTA để xử lý các vấn đề liên quan đến việc tham gia FTA, từ việc đề xuất đàm phán, tham gia đàm phán, tổ chức thực thi FTA, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia FTA, trong đó các Bộ phụ trách về kinh tế, thương mại đóng vai trò chủ chốt. Trong các cơ quan Bộ, ngành rất cần thiết lập các đơn vị đầu mối, “đặc trách” về FTA, ví dụ như Cục Thương mại và Công nghiệp trực thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản; Trung tâm Tận dụng FTA Quốc gia (FTAUC) và Trung tâm Hỗ trợ FTA của Hàn Quốc; Enterprise Singapore trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp của Singapore. Đây không chỉ là các cơ quan đề xuất chính sách và còn là cơ quan thực thi chính sách và hỗ trợ thực thi FTA cho cộng đồng doanh nghiệp.

Hai là, cần phát huy vai trò và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình tham gia các FTA. Do FTA tác động tới nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế nên đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước phải có trách nhiệm đánh giá việc tham gia FTA trong lĩnh vực của mình và phối hợp với các cơ quan khác để đưa ra các chính sách mang tính toàn diện, dựa trên sự xem xét kỹ lưỡng về cơ hội và thách thức, cũng như các tác động tích cực và tiêu cực mà một FTA có thể đem lại cho nền kinh tế và các lĩnh vực cụ thể. Không những thế, các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức có lợi ích liên quan đưa ra quyết định đàm phán và các chính sách hỗ trợ cho các ngành có lợi ích bị ảnh hưởng khi các FTA được ký kết. Điều này là cần thiết để cả cơ quan Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào các FTA, tránh được những tác động tiêu cực có thể gây tổn thương cho các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Ba là, Chính phủ cần xây dựng các chương trình, kế hoạch tổng thể về FTA. Các chương trình, kế hoạch này một mặt nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, mặt khác hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các FTA đã ký kết. Tham gia FTA được coi là chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế thương mại của mỗi quốc gia, do vậy cần phải có các chương trình, kế hoạch để thực hiện và cụ thể hóa chiến lược đó. Các chương trình kế hoạch này cần có nội dung rõ ràng, có các nhiệm vụ cụ thể và phân giao đầu mối triển khai thực hiện.

Bốn là, các cơ quan Chính phủ cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về các FTA cho cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan. Với các FTA thế hệ mới thì việc này càng đặc biệt cần thiết do tính phức tạp và tính mới của các cam kết. Đã có trường hợp các FTA được ký kết, nhưng tỷ lệ tận dụng không cao do các doanh nghiệp chưa nắm bắt, hiểu rõ nội dung cam kết trong các hiệp định này, cũng như chưa nắm được cách thức để có thể tận dụng được các ưu đãi, dẫn đến tâm lý ngại áp dụng các điều khoản ưu đãi. Do vậy, vai trò và hành động của các cơ quan quản lý Nhà nước là phải nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và cộng đồng về các FTA. Có thể thông tin tuyên truyền về các FTA bằng nhiều hình thức như tổ chức các phiên họp định kỳ, các hội nghị hội thảo song trong giai đoạn hiện nay, rất cần phổ biến về FTA qua các trang mạng và cổng thông tin điện tử. Đây là điều mà các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… đã làm rất tốt.

Năm là, cần có cơ chế theo dõi, giám sát, đánh giá quá trình thực thi FTA. Có như vậy mới đảm bảo các cam kết được thực thi nghiêm túc và đánh giá được kết quả, lợi ích do các FTA mang lại. Cơ chế giám sát FTA cũng giúp cho việc xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện các hiệp định, ví dụ như những vướng mắc khó khăn trong quy trình thủ tục hay vướng mắc liên quan đến quy tắc xuất xứ. Cơ chế này còn giúp tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, nâng cao vai trò của các cơ quan trung ương trong việc hỗ trợ các địa phương và doanh nghiệp nhằm tận dụng cơ hội và giảm thiểu rủi ro, thách thức từ các FTA./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công Thương Việt Nam (2023), Báo cáo đánh giá tác động của các FTA thế hệ mới đến kinh tế Việt Nam.

2. European Commission (2021), The EU’s Trade Policy Review: An Open, Sustainable and Assertive Trade Policy, Brussels.

3. I. Cheong (2014), Korea’s Policy Package for Enhancing its FTA Utilization and Implications for Korea’s Policy, available at https://www-unescap-org.webpkgcache.com/doc/FTA_Inkyo%20Cheong.pdf

4. Ministry of Economy, Trade and Industry of Japan (2021), Japan’s Trade Strategy and Economic Partnership Agreements.

5. Nguyễn Ngọc Hà (2021), Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. OECD (2021), Trade Policy Implications of Global Value Chains, OECD Publishing.

7. Pedro Silva Pereira (2019), The EU-Japan Economic Partnership Agreement from the European Parliament’s Perspective: A Landmark Agreement beyond Trade, retrieved from to https://www.waseda. jp/inst/oris/assets/uploads/2018/03/304811b29cc454a7b81d755dd350d480.pdf

8. Phạm Thị Xuân Mai (2012), Chiến lược FTA của Nhật Bản và quá trình thực hiện, truy cập tại https://www.inas.gov.vn/280-chien-luoc-fta-cua-nhat-ban-va-quatrinh-thuc-hien.html

9. S.C. Park (2016), Korea’s Trade Strategies for Mega Free Trade Agreements in Regional and Global Economic Integration, International Organisations Research Journal, 11(4).

10. Shujiro Urata (2007), Japan’s FTA Strategy and Free Trade Area of Asia Pacific (FTAAP), Pacific Economic Cooperation Council Paper.

Ngày nhận bài: 20/02/2022; Ngày phản biện: 28/02/2025; Ngày duyệt đăng: 17/3/2025

Bạn đang đọc bài viết "Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý nhà nước đối với việc tham gia các FTA thế hệ mới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" tại chuyên mục Bài báo khoa học. Tin bài cộng tác vui lòng gửi về email Banbientap@kinhtevadulich.vn hoặc liên hệ hotline 0917501400.