PGS, TS. Trần Đình Tuấn - Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải
PGS, TS. Đỗ Thị Thúy Phương - Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên
Tác giả liên hệ: Đỗ Thị Thúy Phương; Email: thuyphuongkt@tueba.edu.vn
Tóm tắt
Bài viết phân tích thực trạng năng lực quản trị của các cơ sở sản xuất tham gia chương trình OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) tại tỉnh Quảng Ninh, nhằm đánh giá vai trò của các cơ sở sản xuất trong phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, năng lực quản trị của các cơ sở còn tồn tại nhiều hạn chế. Từ đó, nhóm tác giả khuyến nghị, để các cơ sở sản xuất tham gia thuộc Chương trình OCOP và đóng góp hiệu quả vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới, cần nâng cao năng lực quản trị cho các cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Từ khóa: chương trình OCOP, xây dựng nông thôn mới, năng lực quản trị, cơ sở sản xuất tham gia chương trình OCOP, tỉnh Quảng Ninh
Summary
The article analyzes the management capacity of production establishments participating in the OCOP program (One Commune One Product Program) in Quang Ninh Province, aiming to assess the role of production establishments in rural economic development and new-style rural construction. However, the management capacity of the establishments still has many limitations. From there, the authors recommend that for production establishments to participate in the OCOP program and effectively contribute to the goal of new rural construction, it is necessary to improve the management capacity of production establishments in Quang Ninh Province.
Keywords: OCOP program, new-style rural construction, management capacity, production facilities participating in the OCOP program, Quang Ninh Province
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình OCOP là một giải pháp hết sức quan trọng và phù hợp trong việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, do đó trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương và điều kiện thực tế tại địa phương, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ quyết liệt, linh hoạt, bài bản, luôn thể hiện vai trò trách nhiệm là địa phương đi tiên phong để thực hiện Chương trình, triển khai rộng rãi Chương trình OCOP trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố và trên tất cả các xã, phường, thị trấn. Các sản phẩm OCOP ngày càng được đầu tư nâng cấp đạt tiêu chuẩn được người tiêu dùng đón nhận. Cộng đồng các doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ sở sản xuất tham gia OCOP ngày càng có bước trưởng thành và phát triển. Chương trình OCOP thực sự đã trở thành người bạn đồng hành nâng tầm giá trị các sản phẩm truyền thống của địa phương, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Để có sự thành công của sản phẩm trong chương trình OCOP, yếu tố quan trọng của người sản xuất sản phẩm nhất định là chủ thể kinh tế trong đó đặc có cơ sở sản xuất. Các cơ sở sản xuất tham gia sản xuất kinh doanh sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã có đóng góp lớn trong sự phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay, các cơ sở sản xuất tham gia sản xuất kinh doanh sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hoạt động chưa hiệu quả, đặc biệt đội ngũ quản trị của các cơ sở sản xuất còn nhiều hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng năng lực các cơ sở sản xuất tham gia phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm thuộc chương trình OCOP góp phần xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ninh để đánh giá đúng thực trạng từ đó đưa ra giải pháp nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất tham gia phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm thuộc chương trình OCOP góp phần xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ninh là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhóm tác giả tiến hành thiết kế bảng hỏi phỏng vấn các đối tượng thuộc các chủ thể là các cơ sở sản xuất tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thuộc chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhằm đánh giá năng lực quản trị cho các chủ thể. Đối tượng điều tra là các chủ thể là các cơ sở sản xuất. Thời gian khảo sát được thực hiện năm 2024. Số lượng chủ thể và mẫu điều tra được thể hiện cụ thể như ở Bảng 1.
Bảng 1: Số lượng chủ thể và mẫu điều tra
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Về năng lực quản trị nhân lực
Về tình hình lao động: Qua khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thuộc chương trình OCOP tỉnh Quảng Ninh, số lượng lao động trong các cơ sở sản xuất: Cơ sở sản xuất có từ 10 lao động trở xuống chiếm 22,45%; Cơ sở sản xuất có từ 11 đến 50 lao động chiếm 77,55% (Hình 1).
Hình 1: Tình hình lao động của các cơ sở sản xuất
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Về trình độ chuyên môn, độ tuổi của cán bộ quản lý cơ sở sản xuất
Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và các thành viên cơ sở sản xuất có sự cải thiện đáng kể trong những năm qua, cơ sở sản xuất đã thu hút được nhiều hơn số người đã quan đào tạo về làm việc tại các cơ sở sản xuất.
Bảng 2: Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý các cơ sở sản xuất
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Bảng 2 cho thấy, trình độ chuyên môn, không qua đào tạo chuyên nghiệp chiếm 89,8%; trình độ trung cấp chiếm 2,04%; trình độ cao đẳng, đại học chiếm 8,16%, không có lao động có trình độ trên đại học.
Về tổ chức bộ máy quản lý cơ sở sản xuất
Tổng số thành viên cán bộ quản lý của các cơ sở sản xuất dưới 5 thành viên chiếm 91,84%. Tổng số thành viên cán bộ quản lý của cơ sở sản xuất trên 5 thành viên chiếm 8,16%. Giám đốc các cơ sở sản xuất có chuyên môn về quản trị kinh doanh/tài chính kế toán chiếm 81,63%, giám đốc không có chuyên môn về quản trị kinh doanh/tài chính kế toán chiếm 18,37%.
Về chính sách, cơ chế quản trị nhân lực
Kết quả nghiên cứu cho thấy, định kỳ các cơ sở sản xuất đã tổ chức chương trình đào tạo cho người lao động chiếm 65,31%, có 24,49% các cơ sở sản xuất chưa tổ chức chương trình đào tạo cho người lao động, còn lại là các cơ sở sản xuất có kế hoạch triển khai chương trình đào tạo cho người lao động.
Các cơ sở sản xuất đã xây dựng bản mô tả công việc gồm: tên vị trí việc làm, công việc chính phải thực hiện và sản phẩm đầu ra chiếm 42,86%; các cơ sở sản xuất chưa xây dựng bản mô tả công việc gồm tên vị trí việc làm, công việc chính phải thực hiện và sản phẩm đầu ra chiếm 42,86% còn lại các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai xây dựng bản mô tả công việc gồm tên vị trí việc làm, công việc chính phải thực hiện và sản phẩm đầu ra.
Các cơ sở sản xuất đã xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử nội bộ chiếm 67,35%, các cơ sở sản xuất chưa xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử nội bộ chiếm 22,45%, còn lại các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai xây dựng và ban hành bộ qui tắc ứng xử nội bộ.
Các cơ sở sản xuất đã thực hiện đánh giá kết quả thực hiện công việc của cán bộ công nhân viên định kỳ chiếm 75,51%, các cơ sở sản xuất chưa thực hiện đánh giá kết quả thực hiện công việc của cán bộ công nhân viên định kỳ chiếm 18,37%, còn lại là các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai đánh giá kết quả thực hiện công việc của cán bộ công nhân viên
Các cơ sở sản xuất đã ban hành và thực thi đánh giá hiệu quả công việc của người lao động bằng bộ chỉ số hiệu quả công việc (KPI) chiếm 6,12%, các cơ sở sản xuất chưa ban hành và thực thi đánh giá hiệu quả công việc của người lao động bằng bộ chỉ số hiệu quả công việc (KPI) chiếm 89,8%, còn lại là các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai ban hành và thực thi đánh giá hiệu quả công việc của người lao động bằng bộ chỉ số hiệu quả công việc (KPI).
Các cơ sở sản xuất đã thực hiện lấy ý kiến đánh giá mức độ hài lòng của người lao động trong đơn vị về vị trí công việc, chế độ đãi ngộ, chính sách đào tạo, phát triển, môi trường làm việc, cơ sở vật chất chiếm 73,47%, Các cơ sở sản xuất chưa thực hiện lấy ý kiến đánh giá mức độ hài lòng của người lao động trong đơn vị về vị trí công việc, chế độ đãi ngộ, chính sách đào tạo, phát triển, môi trường làm việc, cơ sở vật chất chiếm 18,37%, còn lại là các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Đánh giá về vị trí việc làm của người lao động
Bảng 3: Ý kiến đánh giá của các cơ sở sản xuất về vị trí việc làm của người lao động
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Bảng 3 cho thấy, các nội dung đánh giá về vị trí việc làm của người lao động đều được đánh giá ở mức khá. Trong đó, cơ nội dung đánh giá điểm cao trong mức khá. Nội dung “Người lao động trong đơn vị có cơ hội đưa ra những đề xuất cải tiến phương pháp làm việc” được đánh giá cao với mức điểm trung bình đạt 3,98. Nội dung “Người lao động có thể quyết định cách thức làm việc của họ trong nhiều trường hợp” được đánh giá với điểm trung bình thấp nhất trong nội dung vị trí việc làm chiếm 3,68.
Bảng 4: Đánh giá của các cơ sở sản xuất về chính sách đãi ngộ đối với người lao động
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Bảng 4 cho thấy, các nội dung về chính sách đãi ngộ đối với người lao động tại các cơ sở sản xuất đều có giá trị trung bình từ 3,62 đến 3,82. Đây là mức đánh giá khá. Trong đó nội dung “Đơn vị cam kết duy trì công việc nhằm đảm bảo mức thu nhập ổn định cho người lao động” được các cơ sở sản xuất đánh giá cao nhất với mức điểm 3,82. Nội dung “Đơn vị thực hiện tiến hành cải tiến theo ý kiến đánh giá mức độ hài lòng của người lao động” có mức đánh giá thấp nhất trong các nội dung chính sách đãi ngộ đối với người lao động với điểm trung bình đánh giá 3,62.
Về năng lực quản trị tài chính
Về chính sách, cơ chế quản trị tài chính
Cơ sở sản xuất đã xây dựng bộ quy chế chi tiêu nội bộ để cụ thể hóa mọi chế độ, chính sách và kế hoạch tài chính theo từng năm tài chính chiếm 24,49%, cơ sở sản xuất chưa xây dựng bộ quy chế chi tiêu nội bộ để cụ thể hóa mọi chế độ, chính sách và kế hoạch tài chính theo từng năm tài chính chiếm 51,18%, còn lại là các cơ sở sản xuất có kế hoạch triển khai xây dựng bộ quy chế chi tiêu nội bộ để cụ thể hóa mọi chế độ, chính sách và kế hoạch tài chính theo từng năm tài chính
Cơ sở sản xuất đã lập kế hoạch nguồn vốn, sử dụng và phân bổ nguồn lực, kế hoạch vay và trả nợ, kế hoạch bảo tồn và phát triển vốn chiếm 22,45%, cơ sở sản xuất chưa lập kế hoạch nguồn vốn, sử dụng và phân bổ nguồn lực, kế hoạch vay và trả nợ, kế hoạch bảo tồn và phát triển vốn chiếm 69,39%, còn lại là các cơ sở sản xuất đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Cơ sở sản xuất đã xây dựng được quy trình sản xuất, bán hàng, thu tiền, thu nợ phù hợp chiếm 42,86%, cơ sở sản xuất chưa xây dựng được quy trình sản xuất, bán hàng, thu tiền, thu nợ phù hợp chiếm 36,73%, còn lại là các cơ sở sản xuất có kế hoạch triển khai nội dung này.
Các cơ sở sản xuất đã tiến hành phân tích tài chính định kỳ chiếm 10,2%, các cơ sở sản xuất chưa tiến hành phân tích tài chính định kỳ chiếm 79,59%, còn lại là các cơ sở sản xuất có kế hoạch triển khai nội dung này.
Các cơ sở sản xuất thực hiện kế toán quản trị để cung cấp thông tin cho nhà quản lý chiếm 10,2%, các cơ sở sản xuất chưa thực hiện kế toán quản trị để cung cấp thông tin cho nhà quản lý chiếm 42,86%, còn lại là các cơ sở sản xuất có kế hoạch triển khai nội dung này.
Về quản trị tài chính
Bảng 5: Đánh giá của các cơ sở sản xuất
![]() |
Nguồn: Thu thập và xử lý số liệu của nhóm tác giả |
Bảng 5 cho thấy, nội dung đánh giá về quản trị tài chính nội dung “Tài sản của đơn vị (hàng tồn kho, tài sản cố định...) được theo dõi cả về mặt hiện vật và giá trị” với giá trị trung bình đạt 4,28 ở mức đánh giá rất tốt. Nội dung “Kết quả phân tích tài chính được nhà quản trị của đơn vị dùng để nhận diện nguyên nhân và tìm các giải pháp phát huy ưu điểm, hạn chế tồn tại trong công tác tài chính” đạt điểm trung bình 3,02 và nội dung“Đơn vị thực hiện nhận diện và xử lý các rủi ro tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh nhằm giảm thiểu thiệt hại” với mức điểm trung bình là 3,11. Cả hai nội dung này đều được đánh giá tương ứng với mức đánh giá trung bình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, giai đoạn mà khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin quản trị tài chính không đạt qua các giai đoạn, trong đó giai đoạn kiểm soát hoạt động chiếm tỷ trọng không đạt cao nhất là 44,9%.
Về năng lực quản trị phương án sản xuất, kinh doanh
Về chính sách, cơ chế quản trị phương án sản xuất, kinh doanh
Cơ sở sản xuất tiến hành lập kế hoạch các nguồn lực sản xuất chiếm 75,51%, đơn vị chưa tiến hành lập kế hoạch các nguồn lực sản xuất chiếm 18,37%, còn lại các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này. Cơ sở sản xuất tiến hành lập kế hoạch các nguồn lực sản xuất chiếm 44,9%. Cơ sở sản xuất chưa tiến hành lập kế hoạch các nguồn lực sản xuất chiếm 46,94%, còn lại các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Cơ sở sản xuất thực hiện nghiên cứu tình hình thị trường, dự báo nhu cầu sản xuất sản phẩm chiếm 65,31%. Cơ sở sản xuất chưa thực hiện nghiên cứu tình hình thị trường, dự báo nhu cầu sản xuất sản phẩm chiếm 6,12%, còn lại các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Về quản trị phương án sản xuất, kinh doanh
Bảng 6: Ý kiến đánh giá của các cơ sở sản xuất
![]() |
Nguồn: Thu thập và xử lý số liệu của nhóm tác giả |
Bảng 6 cho thấy, nội dung đánh giá của các cơ sở sản xuất tham gia SXKD sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh về quản trị phương án sản xuất kinh doanh đều đạt mức khá. Trong đó, nội dung “Lịch trình sản xuất tổng thể được thiết kế phù hợp với việc sản xuất các sản phẩm dựa trên việc dự báo nhu cầu thị trường” được đánh giá ở mức Khá nhưng với số điểm trung bình chưa cao.
Về năng lực điều hành và giám sát, kiểm tra
Đơn vị đã tham gia đề tài/dự án về chuỗi liên kết “Sản xuất - Tiêu thụ” chiếm 6,12%, đơn vị đã tham gia đề tài/dự án về chuỗi liên kết “Sản xuất - Tiêu thụ” chiếm 85,71%, còn lại là các đơn vị có kế hoạch triển khai nội dung này.
Đơn vị tham gia các hình thức xúc tiến thương mại (tham gia hội chợ, triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm…) chiếm 85,71%, các đơn vị chưa tham gia các hình thức xúc tiến thương mại (tham gia hội chợ, triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm…) chiếm 10,2%, còn lại là các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Đơn vị đã thiết kế kiểm soát quá trình một cách rõ ràng chiếm 26,53%, đơn vị chưa thiết kế kiểm soát quá trình một cách rõ ràng chiếm 69,85%, còn lại là các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Đơn vị thực hiện khảo sát nhu cầu của khách hàng chiếm 46,94%, đơn vị chưa thực hiện khảo sát nhu cầu của khách hàng chiếm 34,67% còn lại là các đơn vị đã có kế hoạch triển khai nội dung này.
Bảng 7: Ý kiến đánh giá của các cơ sở sản xuất về quản trị năng lực điều hành và giám sát, kiểm tra
![]() |
Nguồn: Thu thập và xử lý số liệu của nhóm tác giả |
Bảng 7 cho thấy, đánh giá chính sách cơ chế giám sát, kiểm tra tại các cơ sở sản xuất đều được đánh giá ở mức Khá với điểm trung bình từ 3,41 đến 3,88. Trong đó, nội dung “Duy trì việc liên lạc chặt chẽ với nhà cung cấp để thảo luận về chất lượng và những thay đổi trong thiết kế sản phẩm” được đánh giá ở mức cao nhất với giá trị trung bình đạt 3,88. Nội dung “Phần lớn các quá trình sản xuất tại xưởng được kiểm soát chất lượng theo thống kê” với mức đánh giá Khá tuy nhiên đây là mức điểm chưa cao.
Hình 3: Nội dung kiểm soát chất lượng được cơ sở sản xuất thực hiện
![]() |
Nguồn: Thu thập và xử lý số liệu của nhóm tác giả |
Hình 3 cho thấy, nội dung được kiểm soát nhiều nhất là tiêu chuẩn chất lượng cho từng sản phẩm và nội dung xác định số lượng sản phẩm sẽ được kiểm tra cơ sở sản xuất.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nhằm nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở sản xuất tham gia chương trình OCOP tại Quảng Ninh, theo chúng tôi, trước tiên, cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn chuyên sâu về quản trị doanh nghiệp, tài chính và chiến lược kinh doanh nhằm nâng cao trình độ quản lý cho các chủ cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó, các cơ sở cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất, đặc biệt là các phần mềm kế toán, quản lý chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Việc liên kết với các chuyên gia, tổ chức tư vấn để hỗ trợ xây dựng chiến lược kinh doanh bền vững cũng rất quan trọng. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất cần tăng cường kết nối với hệ thống phân phối, tham gia nhiều hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tiêu thụ. Chính quyền địa phương và các tổ chức hỗ trợ cũng cần có chính sách ưu đãi về vốn vay, đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật để giúp các cơ sở sản xuất phát triển bền vững, nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó góp phần xây dựng nông thôn mới hiệu quả hơn./.
Tài liệu tham khảo
1. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 919/QĐ-TTg, ngày 01/8/2022 phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2021-2025.
2. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định 263/QĐ-TTg, ngày 22/02/2022 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.
3. UBND tỉnh Quảng Ninh (2021), Đề án thực hiện chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025.
Ngày nhận bài: 10/02/2025; Ngày phản biện: 21/2/2025; Ngày duyệt đăng: 18/3/2025 |