Tóm tắt
Hiện nay, thị trường carbon trên thế giới đang có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô giao dịch cũng như các bên tham gia. Ngày càng nhiều quốc gia coi thị trường carbon là một trong những công cụ chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính, chống lại biến đổi khí hậu. Bài viết phân tích thực trạng thị trường carbon tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong phát triển thị trường cacbon, từ đó đưa ra một số khuyến nghị giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tín chỉ carbon tạo động lực cho phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: thị trường carbon, phát triển bền vững, động lực
Summary
Currently, the carbon market in the world is developing strongly in transaction scale and participants. More and more countries consider the carbon market as one of the crucial policy tools to promote greenhouse gas emission reduction and combat climate change. The article analyzes the current situation of the carbon market in Vietnam and learns from the experience of some countries worldwide in developing the carbon market, thereby proposing some recommendations and solutions to promote the development of the carbon credit market to create momentum for sustainable development in Vietnam.
Keywords: carbon market, sustainable development, momentum
GIỚI THIỆU
Trong thời gian qua, thị trường carbon toàn cầu đã có sự phát triển nhanh chóng. Năm 2023, quy mô thị trường carbon toàn cầu đạt mức kỷ lục 949 tỷ USD, tăng 2% so với 2022 do giá trị giao dịch tăng cao, với khối lượng giao dịch đạt khoảng 12,5 tỷ tấn carbon, tương đương năm 2022[1]. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển thị trường carbon trong nước, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hướng đến một nền kinh tế phát thải thấp với tốc độ phát triển nhanh và bền vững, cũng như hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại COP26 là phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Để phát triển hiệu quả thị trường carbon Việt Nam, cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm quốc tế để áp dụng phù hợp với thực tế trong nước, cũng như thực hiện một số giải pháp liên quan đến các vấn đề về hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng và tăng cường năng lực, mở rộng hợp tác quốc tế…
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CARBON TẠI VIỆT NAM
Chủ trương, chính sách về phát triển thị trường carbon trong nước và cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng thị trường tín chỉ carbon. Ngay từ năm 2013, Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; phát triển thị trường trao đổi tín chỉ carbon trong nước, tham gia thị trường carbon toàn cầu. Tiếp theo đó, Kết luận 56-KL/TW năm 2019, Nghị quyết 55-NQ/TW năm 2020 của Bộ Chính trị tiếp tục nhấn mạnh phát triển thị trường carbon nội địa là một nhiệm vụ trọng tâm trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, trong đó nổi bật là Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, trong đó nêu rõ tập trung nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển cơ chế tài chính, thị trường carbon; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nhấn mạnh việc thành lập thị trường carbon hướng tới phát triển đồng bộ cơ chế trao đổi quyền phát thải theo cơ chế thị trường. Năm 2021, Nghị quyết số 50-NQ/CP của Chính phủ đã xác định “thực hiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam” là một trong các nhiệm vụ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Ngày 7/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định chi tiết việc giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone và phát triển thị trường carbon. Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ phát thải, hấp thụ khí nhà kính; tham gia phát triển thị trường carbon trong nước; sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, tiêu thụ và xử lý các chất làm suy giảm tầng ozone, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone.
Các quy định về thị trường carbon trong nước cũng đã chính thức được luật hóa tại Điều 41 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Điều 139 trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tiếp tục khẳng định một trong những nội dung giảm nhẹ phát thải khí nhà kính là tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước. Để quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon được ban hành đã quy định chi tiết lộ trình phát triển thị trường carbon cũng như các hoạt động trên thị trường này, bao gồm: trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thông qua cơ chế trao đổi, bù trừ.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tích cực thể hiện trách nhiệm và vai trò của mình trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Việt Nam đã cam kết giảm phát thải khí nhà kính và phấn đấu đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ. Tiếp đó, tại COP27, Việt Nam đã gửi Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật, theo đó, mức đóng góp giảm phát thải khí nhà kính không điều kiện đến năm 2030 đã tăng từ 9% lên 15,8% và đóng góp có điều kiện tăng từ 27% lên 43,5% (so với kịch bản phát triển thông thường). Trong đó, đóng góp không điều kiện là nỗ lực giảm phát thải của quốc gia được thực hiện bằng các nguồn lực trong nước, bao gồm: ngân sách nhà nước, vốn vay, đầu tư của doanh nghiệp, đầu tư của người dân. Đóng góp có điều kiện là nỗ lực giảm phát thải của quốc gia khi được quốc tế cung cấp tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực thông qua các cơ chế hợp tác song phương và đa phương. Điều này cũng thể hiện minh chứng rõ ràng cho nỗ lực hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 là đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Vai trò của thị trường cacbon trong thúc đẩy phát triển bền vững
Phát triển thị trường carbon là một trong những giải pháp quan trọng không những giúp Việt Nam giảm phát thải, mà còn nhằm đạt được mục tiêu hướng tới một nền kinh tế carbon thấp, đồng thời có tốc độ phát triển nhanh và bền vững.
Thứ nhất, thị trường này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy phát triển nền kinh tế xanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Thông qua các cơ chế tài chính của thị trường tín chỉ carbon, các doanh nghiệp và tổ chức có thể mua bán tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính, từ đó thúc đẩy việc giảm phát thải và nghiên cứu, đầu tư vào các công nghệ sạch cũng như sản xuất năng lượng xanh, sạch nhằm giảm lượng khí thải, giúp Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế dựa vào công nghệ và đổi mới.
Thứ hai, với tiềm năng phát triển các hoạt động giảm phát thải, như: trồng rừng, bảo vệ rừng và phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể trở thành nguồn cung cấp tín chỉ carbon cho thị trường thế giới, tạo ra nguồn thu nhập mới và việc làm bền vững. Theo thống kê, diện tích rừng hiện nay của nước ta là 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng ở mức hơn 42%. Với diện tích rừng như hiện tại, nước ta có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ ước thu về 200 triệu USD, tương đương gần 5.000 tỷ đồng mỗi năm[2].
Cuối cùng, thị trường carbon cũng mở ra cơ hội thu hút đầu tư quốc tế vào các dự án năng lượng tái tạo và công nghệ xanh, cũng như hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, giúp Việt Nam tiếp cận các nguồn tài trợ và học hỏi từ kinh nghiệm toàn cầu, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Kết quả đạt được và thách thức trong phát triển thị trường carbon
Tại Việt Nam, việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đã được triển khai qua các cơ chế tín chỉ carbon, như: Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung (JCM) và các cơ chế tín chỉ tự nguyện khác. Thời gian qua, Việt Nam có khoảng 150 chương trình, dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ carbon và thực hiện theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế để trao đổi trên thị trường carbon thế giới [6]. Trong đó, Việt Nam đã đăng ký 258 dự án theo CDM, đạt tổng lượng giảm phát thải khoảng 140 triệu tấn CO2 tương đương. Các doanh nghiệp tham gia đã bán hơn 4 triệu tín chỉ carbon, tạo ra nguồn thu tài chính quan trọng giúp mở rộng sản xuất, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với JCM, được triển khai từ năm 2013 trong chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản, đã có 14 dự án được đăng ký với tiềm năng giảm phát thải khoảng 15.996 tấn CO2 mỗi năm. Trong số đó, 8 dự án đã đi vào hoạt động và được cấp tổng cộng 4.414 tín chỉ carbon.
Bên cạnh đó, nhiều dự án tự nguyện tại Việt Nam cũng đã được đăng ký theo các tiêu chuẩn quốc tế, như: Tiêu chuẩn Vàng (GS) và Tiêu chuẩn carbon được thẩm tra (VCS). Cụ thể, 20 dự án đã được đăng ký theo tiêu chuẩn GS, với tổng số tín chỉ đạt hơn 3,27 triệu và 17 dự án theo tiêu chuẩn VCS với tổng hơn 600.000 tín chỉ [4].
Năm 2023 được coi là cột mốc quan trọng khi lần đầu tiên trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng thông qua Ngân hàng Thế giới (WB) và thu về 51,5 triệu USD [5]. Đây là kết quả của việc thực hiện Thỏa thuận chi trả giảm phát thải nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc nhóm WB. Nguồn tiền thu được từ bán tín chỉ carbon rừng dùng để chi trả cho các chủ rừng được giao quản lý rừng tự nhiên, UBND cấp xã và các tổ chức được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý rừng tự nhiên, các đối tượng khác có hoạt động liên quan đến thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, góp phần giảm mất rừng, suy thoái rừng và nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân làm nghề rừng.
Về phát triển thị trường giao dịch tín chỉ carbon, ngày 29/9/2023, Tập đoàn CT Group đã chính thức ra mắt Công ty Cổ phần Sàn giao dịch Tín chỉ Carbon ASEAN (CCTPA), trở thành doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam khởi động sàn giao dịch tín chỉ carbon. Đây là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam cung cấp thông tin tư vấn đầy đủ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về cách thức xây dựng dự án tín chỉ carbon, cách thức đăng ký, kiểm định, xác nhận cùng các cơ chế trao đổi, đền bù, vay tín dụng đối với các khoản tín dụng carbon và áp dụng thuế carbon trong khu vực và trên toàn cầu.
Ngày 6/02/2024, FPT IS (Công ty thành viên của Tập đoàn FPT) cùng Carbon EX - nền tảng giao dịch tín dụng carbon, chứng chỉ năng lượng tái tạo tại Nhật Bản - cũng đã ký biên bản ghi nhớ về việc hợp tác cung cấp dịch vụ và giải pháp nhằm thúc đẩy dự án tín chỉ carbon theo các tiêu chuẩn toàn cầu, như: Verra Carbon Standard, Gold Standard, J-Credit. Có thể thấy, sự tham gia của các doanh nghiệp và địa phương là yếu tố quan trọng để có thị trường carbon hoạt động hiệu quả trên toàn quốc, hướng đến mục tiêu chung là giảm phát thải khí nhà kính và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Mặc dù có tiềm năng lớn để phát triển thị trường carbon, song Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, cụ thể: (i) Khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện và tiêu chuẩn chưa rõ ràng. Tín chỉ carbon là một thị trường mới mẻ ở nước ta. Do đó, khung pháp lý về thị trường này còn chưa theo được thực tiễn. Bên cạnh đó, mặc dù đã có một số quy định ban đầu, các quy định chi tiết về giao dịch, định giá tín chỉ carbon và xử lý vi phạm vẫn chưa toàn diện và cụ thể; (ii) Nguồn nhân lực cho thị trường carbon còn khá khiêm tốn. Trước xu hướng chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế xanh, nhu cầu về nguồn nhân lực có chuyên môn cao trong lĩnh vực giảm phát thải carbon ở Việt Nam đang ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, hiện tại, nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ carbon đang thiếu cả về số lượng và chất lượng. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực am hiểu về phát triển dự án carbon và thẩm định tín chỉ còn thiếu. Đây cũng là bài toán đầy thách thức cho quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu; (iii) Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) chưa hiện đại. Hệ thống MRV tại Việt Nam vẫn đang phát triển và chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tính chính xác và minh bạch để đạt được sự công nhận trên thị trường quốc tế, gây khó khăn trong việc theo dõi và xác minh lượng phát thải. Việc thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhân lực phù hợp và chính sách vận hành MRV là một rào cản lớn đối với sự triển khai hiệu quả của thị trường carbon.
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CARBON ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Hiện nay, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã triển khai thị trường carbon với những mô hình khác nhau.
Liên minh châu Âu (EU)
EU là khu vực đi đầu trên thế giới về phát triển thị trường tín chỉ carbon với mục đích nỗ lực giảm thiểu phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện mục tiêu giảm thiểu biến đổi khí hậu toàn cầu. Hệ thống Giao dịch phát thải khí nhà kính (EU ETS) ra đời từ năm 2005, là hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới và được coi là một trong những công cụ chính sách quan trọng nhất được EU thiết kế để chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Hệ thống này dựa trên nguyên tắc “cap and trade”, nghĩa là đặt ra một giới hạn (cap) về lượng phát thải khí nhà kính mà các ngành công nghiệp và sản xuất điện được phép thải ra. Các doanh nghiệp sau đó có thể mua bán quyền phát thải trong khuôn khổ của giới hạn này, tạo điều kiện cho việc giảm phát thải khí nhà kính một cách hiệu quả về chi phí, đồng thời thúc đẩy đổi mới và đầu tư vào công nghệ sạch và các giải pháp carbon thấp. Theo đó, EU giới hạn lượng khí thải được phát hành trong giai đoạn 2021-2030 là 1,57 tỷ tấn CO2, thấp hơn so với giai đoạn trước đó (2013-2020) là 1,95 tỷ tấn CO2.
Trung Quốc
Sau 10 năm thí điểm, Trung Quốc đã chính thức vận hành thị trường carbon quốc gia vào năm 2021, hiện nay chủ yếu tập trung ở ngành điện, với tổng lượng phát thải khí CO2 đạt khoảng 4,5 tỷ tấn/năm, đưa Trung Quốc trở thành thị trường giao dịch carbon có quy mô lớn nhất trên phạm vi toàn cầu. Sau khi thị trường carbon ngành sản xuất điện vận hành ổn định, Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi ngành nghề để kiểm soát phát thải khí nhà kính, thúc đẩy đổi mới công nghệ xanh, chuyển đổi các ngành nghề tiêu thụ nhiều năng lượng và có lượng phát thải lớn sang các ngành nghề carbon thấp. Hiện tại, thị trường giao dịch carbon của Trung Quốc bao gồm: thị trường giao dịch hạn ngạch carbon (thị trường chính) và thị trường giao dịch tín chỉ carbon (thị trường phụ trợ). Chủ thể giao dịch của thị trường giao dịch hạn ngạch carbon là các doanh nghiệp kiểm soát phát thải, đối tượng giao dịch là hạn ngạch carbon, doanh nghiệp có lượng khí thải carbon thực tế lớn hơn hạn ngạch carbon ban đầu có thể mua từ doanh nghiệp có hạn ngạch carbon dư thừa. Chủ thể giao dịch trên thị trường giao dịch tín chỉ carbon là doanh nghiệp kiểm soát phát thải và doanh nghiệp giảm phát thải tự nguyện, với đối tượng giao dịch là tín chỉ carbon. Dự báo việc phát triển thị trường giao dịch carbon sẽ kích thích đổi mới tài chính và sự ra đời của các ngành nghề mới, như: tài chính carbon, dịch vụ carbon..., giúp tạo thêm động lực phát triển, đem lại cơ hội việc làm và nguồn thu từ thuế cho nền kinh tế Trung Quốc.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÍN CHỈ CARBON TẠO ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Những kinh nghiệm của các nước giúp định hình và phát triển các thị trường carbon toàn cầu, tạo cơ sở cho việc cắt giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới phát triển xanh và bền vững. Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và các bài học được đúc rút phù hợp với thực tế trong nước, để phát triển hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam, đưa thị trường carbon thực sự trở thành động lực cho quá trình chuyển đổi xanh, thúc đẩy nền kinh tế carbon thấp và quá trình phát triển bền vững của đất nước, một số khuyến nghị giải pháp được đưa ra như sau:
Một là, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường carbon nhằm đảm bảo thị trường hoạt động một cách minh bạch, công bằng và hiệu quả. Trong đó bao gồm cả các quy định pháp lý liên quan đến việc tính toán, đo đạc, xác định các sản phẩm giao dịch trên thị trường carbon, như: hạn ngạch phát thải khí nhà kính, các loại tín chỉ carbon... Đồng thời, các quy định, tiêu chuẩn về giao dịch tín chỉ carbon tại thị trường phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia một cách thuận lợi và có trách nhiệm.
Hai là, cải thiện hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) ở cả cấp quốc gia và cấp ngành, nhằm đo lường chính xác và minh bạch dữ liệu về giảm phát thải, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao độ tin cậy của tín chỉ carbon Việt Nam trên thị trường thế giới. Đồng thời có quy trình đo đạc, báo cáo và thẩm định cụ thể, rõ ràng cho từng lĩnh vực (như: năng lượng, nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp…).
Ba là, xây dựng và tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các bên tham gia vào thị trường carbon. Thị trường carbon và những vấn đề liên quan còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam, vì vậy, cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nhằm tăng cường năng lực của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng và doanh nghiệp về nguyên lý vận hành thị trường carbon, các quy định của pháp luật liên quan đến thị trường này, trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực, như: kiểm kê khí nhà kính, thẩm định và đánh giá các dự án tín chỉ carbon…
Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm từ các nước thành công. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển thị trường carbon, đặc biệt là với các quốc gia đã triển khai thành công hệ thống ETS, như: EU, Trung Quốc và Nhật Bản, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm và lựa chọn xây dựng một hệ thống ETS phù hợp với bối cảnh thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước. Bên cạnh đó, cần tăng cường tham gia vào các diễn đàn, sáng kiến quốc tế về biến đổi khí hậu và thị trường carbon, giúp Việt Nam cập nhật thông tin, xu hướng và các giải pháp mới nhất trong lĩnh vực này; đồng thời còn mở ra cơ hội tiếp cận được các nguồn vốn hỗ trợ quốc tế, cũng như hợp tác với các nhà đầu tư toàn cầu trong phát triển các dự án năng lượng tái tạo và công nghệ sạch./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2019), Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2020), Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Bộ Tài chính (2024), Dự thảo Báo cáo thuyết minh đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam.
5. Chương Phượng (2024), Lần đầu tiên Việt Nam bán thành công tín chỉ carbon rừng với trị giá 51,5 triệu USD, truy cập từ https://vneconomy.vn/lan-dau-tien-viet-nam-ban-thanh-cong-tin-chi-carbon-rung-voi-tri-gia-51-5-trieu-usd.htm.
6. Nguyễn Hoàng (2024), Thị trường tín chỉ carbon - đường đến Net Zero, truy cập từ https://baochinhphu.vn/thi-truong-tin-chi-carbon-duong-den-net-zero-102240823105630704.htm
7. Tạ Đình Thi (2024), Phát triển thị trường các-bon: Kinh nghiệm quốc tế và cơ hội, thách thức, triển vọng đối với Việt Nam, truy cập từ https://baotainguyenmoitruong.vn/phat-trien-thi-truong-cac-bon-kinh-nghiem-quoc-te-va-co-hoi-thach-thuc-trien-vong-doi-voi-viet-nam-381002.html.
8. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 896/QĐ-TTg, ngày 26/7/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
9. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.
10. Trần Thị Kim Liên, Hoàng Thị Lý (2023), Xây dựng thị trường carbon ở Việt Nam với tăng trưởng xanh, Tạp chí Nghiên cứu khoa học công đoàn, số 29, tháng 3/2023.
ThS. Nhữ Lê Thu Hương
Phó Trưởng ban Chiến lược Phát triển bền vững và môi trường,
Viện Chiến lược phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 02, tháng 01/2025)
[1] Theo số liệu của Sở Giao dịch chứng khoán Luân Đôn.
[2] Theo số liệu của Cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.