Từ khóa: Bẫy thu nhập trung bình, Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Việt Nam
Summary
After nearly 40 years of conducting Doi Moi (1986), the power and influence of the country have seen remarkable development. From a poor, war-torn country, Vietnam has become a middle-income country and one of the leading agricultural exporters in the world. However, with the growth rate experienced during the past period, Vietnam is forecasted to be unable to become a developed and high-income country by 2045. The risk of falling behind and getting stuck in the middle-income trap is becoming an extreme challenge the economy must overcome. Nevertheless, with significant changes occurring in both the international and domestic contexts, opportunities for Vietnam do exist. This article focuses on assessing Vietnam's chances of avoiding the middle-income trap in the new development era, the era of the nation’s rise.
Keywords: Middle-income trap, the new development era, the era of nation’s rise, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm “Bẫy thu nhập trung bình” lần đầu tiên được đưa ra bởi Gill và Kharas (2007) chỉ các quốc gia thu nhập thấp sau Thế chiến II đã thành công trong việc thoát khỏi bẫy đói nghèo và gia nhập vào nhóm quốc gia thu nhập trung bình nhưng sau đó lại thất bại trong giai đoạn chuyển tiếp sang nhóm quốc gia thu nhập cao. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) (2024), phân loại nhóm nước theo thu nhập cho giai đoạn từ ngày 01/7/2024 đến 30/6/2025 như sau: (i) Thu nhập thấp: GNI/người nhỏ hơn hoặc bằng 1.145 USD vào năm 2023; (ii) Thu nhập trung bình thấp: GNI/người từ 1.146 USD đến 4.515 USD vào năm 2023; (iii) Thu nhập trung bình cao: GNI/người từ 4.516 USD đến 14.005 vào năm 2023; và (iv) Thu nhập cao: GNI/người lớn hơn 14.005 USD vào năm 2023. Tại thời điểm năm 2023, GNI/người của Việt Nam là 4.180 USD, thuộc nhóm trung bình thấp, trong khi mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành một nền kinh tế thu nhập cao. Điều đó chắc chắn sẽ đòi hỏi Việt Nam phải đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian đủ dài, để có thể thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
Theo WB (2013, 2024), từ năm 1960-2022, đã có 41 nền kinh tế đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trong đó có nhiều nền kinh tế có dân số nhỏ và là các quốc đảo; đáng chú ý là đã từng có nền kinh tế đã bước vào nhóm thu nhập cao nhưng lại rơi trở lại nhóm thu nhập trung bình, như: Guinea Xích đạo và Mauritus. Tính đến thời điểm năm 2023, trong số các nước thoát bẫy, nếu xét quy mô dân số > 5 triệu dân, có 26 nền kinh tế; nếu dân số > 20 triệu dân, có 6 nền kinh tế; và nếu dân số > 100 triệu dân, có duy nhất Nhật Bản. Dự báo có thể đến năm 2025, Trung Quốc cũng sẽ trở thành nền kinh tế có dân số > 100 triệu dân thứ hai thoát được bẫy và bước vào nhóm nền kinh tế thu nhập cao.
Trong số các nền kinh tế đã tiến lên nhóm thu nhập cao, rất đáng chú ý có các nền kinh tế Đông Bắc Á và Đông Nam Á, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore và có thể là Trung Quốc trong một vài năm tới. Đó là những nền kinh tế có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về: vị trí địa lý, văn hóa và phần nào đó là mô hình tăng trưởng. Bài viết tiến hành đối sánh một số điểm kinh tế vĩ mô nổi bật của các nền kinh tế nêu trên với Việt Nam, từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách cho phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ VĨ MÔ CỦA CÁC QUỐC GIA
Tốc độ tăng trưởng
Một điểm chung dễ nhận thấy là các nền kinh tế đã tiến lên nhóm thu nhập cao nêu trên đã có tăng trưởng cao trong thời gian dài, đa phần > 30 năm (chỉ trừ Nhật Bản tăng trưởng cao trong 23 năm), thậm chí Đài Loan và Singapore tăng trưởng cao trong gần 40 năm. Tốc độ tăng GDP bình quân từ 8,5%-11,5%/năm, trong đó có khá nhiều năm tăng > 10% (như: Trung Quốc có 16 năm, Hàn Quốc có 15 năm) và có những năm tăng trưởng đạt rất cao (như Nhật Bản tăng 34,0% vào năm 1952 hay Singapore tăng 28,2% vào năm 1966) (Bảng 1). Chính tốc độ tăng trưởng cao trong các giai đoạn này đã góp phần đưa 4/5 nền kinh tế thoát bẫy thu nhập trung bình và đưa Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vào nhóm các nền kinh tế có quy mô GDP thuộc tốp đầu của thế giới.
Bảng 1: Thời kỳ tăng trưởng cao của một số nền kinh tế châu Á và Việt Nam
TT | Nền kinh tế | Thời kỳ tăng trưởng cao | Tốc độ tăng bình quân (%) | Số năm tăng trưởng trên 10% | Tốc độ tăng cao nhất (%) |
1 | Trung Quốc | 1978-2011 | 10,0 | 16 | 15,2 |
2 | Nhật Bản | 1951-1973 | 11,5 | 12 | 34,0 |
3 | Hàn Quốc | 1963-1996 | 9,6 | 15 | 14,9 |
4 | Đài Loan | 1952-1989 | 8,9 | 14 | 13,9 |
5 | Singapore | 1961-1997 | 8,5 | 8 | 28,2 |
6 | Việt Nam | 1986-2023 | 6,4 | 0 | 9,54 |
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc “Đổi mới” vào năm 1986, nền kinh tế đã có những bước tiến vượt bậc, từ một quốc gia nghèo đói, kém phát triển bị tàn phá nặng nề bởi các cuộc chiến tranh, đã vươn lên trở thành một quốc gia xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu thế giới và là một nước có nền thu nhập trung bình. Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1986-2023 là 6,40%/năm, xếp vào nhóm các nước có tăng trưởng khá trên thế giới và trong khu vực trong cùng thời kỳ (Hình 1).
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời kỳ 1986-2023
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và Tổng cục Thống kê |
Tuy nhiên, như thế là chưa đủ để Việt Nam có thể bắt kịp các nước phát triển, khi vào thời điểm năm 2023, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp. Trong suốt 38 năm qua kể từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam chỉ có 13 năm tăng trưởng > 7,0% (mức có thể bảo đảm để GDP/người tăng gấp 2 lần), trong đó có 7 năm tăng trưởng > 8,0% và chỉ có 2 năm tăng trưởng > 9,0%. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của 10 năm theo các kỳ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có xu hướng giảm dần theo thời gian. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1991-2000, 2001-2010, 2011-2020 lần lượt là 7,57%/năm, 7,26%/năm, và 6,21%/năm. Riêng đối với thời kỳ 2021-2030 thì 3 năm qua, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 5,22%/năm. Điều đó thể hiện tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tuy đạt mức khá nhưng chưa đủ cao và thiếu ổn định, đang thiếu dư địa nếu tiếp tục với mô hình tăng trưởng cũ.
Độ mở của nền kinh tế
Nhìn chung, mô hình tăng trưởng của các nền kinh tế châu Á nêu trên trong thời kỳ tăng trưởng cao là công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, do vậy, độ mở nền kinh tế của họ đều khá cao. Ngoại trừ Nhật Bản độ mở có chiều hướng giảm trong giai đoạn tăng trưởng cao, các nền kinh tế còn lại đã có sự tăng mạnh về độ mở, trong đó nổi bật nhất là Singapore với tỷ lệ xuất, nhập khẩu gấp trên 3,2 lần so với GDP (Bảng 2).
Bảng 2: Tỷ lệ xuất – nhập khẩu so với GDP của một số nền kinh tế châu Á trong thời kỳ tăng trưởng cao và Việt Nam thời kỳ Đổi mới (%)
TT | Nền kinh tế | Xuất khẩu so GDP | Nhập khẩu so GDP | Xuất nhập khẩu so GDP | |||
Đầu kỳ | Cuối kỳ | Đầu kỳ | Cuối kỳ | Đầu kỳ | Cuối kỳ | ||
1 | Trung Quốc (1978-2011) | 7,2 | 26,6 | 8,2 | 24,2 | 15,4 | 50,7 |
2 | Nhật Bản (1951-1973) | 14,2 | 10,5 | 12,2 | 9,0 | 26,3 | 19,5 |
3 | Hàn Quốc (1963-1996) | 4,0 | 24,8 | 14,7 | 27,9 | 18,6 | 52,7 |
4 | Đài Loan (TQ) (1952-1989) | 8,0 | 49,5 | 14,1 | 42,1 | 22,2 | 91,7 |
5 | Singapore (1961-1997) | 142,4 | 169,3 | 157,0 | 154,6 | 299,4 | 323,9 |
6 | Việt Nam (1986-2023) | 6,6 | 87,2 | 16,6 | 79,1 | 23,2 | 166,3 |
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và ADB
Một điểm lưu ý nữa, cán cân xuất – nhập khẩu so GDP của các nền kinh tế đã được cải thiện mạnh mẽ (ngoại trừ Nhật Bản có giảm đôi chút, nhưng vẫn ở mức thặng dư); trong đó, Singapore (SIN) và Đài Loan (ĐL TQ) là các nền kinh tế có thặng dư thương mại lớn vào cuối kỳ, sau khi có sự thâm hụt khá lớn ở đầu thời kỳ (Hình 2).
Hình 2: Cán cân thương mại so GDP của một số nước châu Á trong thời kỳ tăng trưởng cao
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và ADB |
Dường như độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá giống với Singapore, khi độ mở của nền kinh tế (xuất – nhập khẩu so GDP) ngày càng tăng theo thời gian, từ chỉ 23,2% năm 1986, đã đạt 111,4% năm 2000 và 166,3% năm 2023 (Hình 3). Hiện nay, Việt Nam được xem là một trong số những nền kinh tế mở nhất trên thế giới và trong khu vực ASEAN, độ mở của kinh tế Việt Nam chỉ sau Singapore. Bên cạnh đó, cán cân thương mại của Việt Nam cũng đã được cải thiện theo thời gian, khi kể từ năm 2011-2023, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được thặng dư thương mại. Tuy nhiên, cán cân xuất, nhập khẩu đang có những rủi ro nhất định khá dễ nhận thấy: (i) Thứ nhất, xuất, nhập khẩu của Việt Nam có sự phụ thuộc khá lớn vào một số thị trường nhất định, như: nhập khẩu từ Trung Quốc (chiếm 35%) và xuất khẩu vào Hoa Kỳ (chiếm 28%); (ii) Thứ hai, xuất khẩu hàng hóa chủ yếu đến khu vực đầu tư nước ngoài (chiếm 73%).
Hình 3: Cán cân và chênh lệch xuất, nhập khẩu và chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so GDP của Việt Nam (%)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và Tổng cục Thống kê |
Tỷ lệ đầu tư so với GDP
Để đạt được sự tăng trưởng cao, các nền kinh tế châu Á nêu trên bằng nhiều cách khác nhau đã huy động tỷ lệ vốn lớn (so với GDP) cho đầu tư phát triển, với tỷ lệ bình quân khoảng 35%/năm và khoảng 40% vào năm cuối thời kỳ tăng trưởng cao (ngoại trừ Đài Loan). Điển hình là Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng cao trong suốt thời kỳ 38 năm, đã có tỷ lệ tổng tạo vốn (Tiếng Anh: gross capital formation) bình quân lên tới 38%/năm và 46,7% vào năm 2011 (Hình 4).
Hình 4: Tỷ lệ tổng tạo vốn so GDP (%) của một số nước châu Á trong thời kỳ tăng trưởng cao
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và ADB |
Tổng tạo vốn so GDP của Việt Nam kể từ năm 1995 bình quân đạt trên 32,3%/năm là một con số không nhỏ, trong đó có năm đạt tới mức gần 40% (năm 2007). Tốc độ tăng Tổng tạo vốn bình quân thời kỳ 1995-2023 đạt mức bình quân 9,7%/năm, gấp hơn 1,3 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP trong cùng thời kỳ. Nếu so sánh với các nước châu Á kể trên có thể nhận thấy 2 điểm: (i) Hiệu quả vốn của Việt Nam là kém, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao; (2) Đầu tư của Việt Nam vẫn chưa đủ mức trong thời gian dài để có thể bảo đảm cho mức tăng trưởng cao (Hình 5).
Hình 5: Tỷ trọng Tổng tạo vốn so GDP (%) và tốc độ tăng Tổng tạo vốn (%)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của UNSTATS, WB và Tổng cục Thống kê |
Vai trò của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Trong thời kỳ tăng trưởng cao, ngành chế biến, chế tạo (CBCT) được xem là “động lực” tăng trưởng và thể hiện mức độ công nghiệp hóa (UNIDO) của các nền kinh tế châu Á nêu trên. Nhìn chung, tỷ trọng giá trị tăng thêm (VA) của ngành trong GDP tại năm cuối thời kỳ tăng trưởng của các nền kinh tế đều ở mức khá cao, đặc biệt là Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc đều ở mức khoảng 35%-40% (Hình 6). Điểm đáng lưu ý, ngay tại thời điểm hiện tại (năm 2023), tỷ trọng VA trong GDP của ngành công nghiệp CBCT của các nền kinh tế trên đều vẫn khá cao, nhất là Hàn Quốc và Đài Loan, con số này gần như không có nhiều thay đổi so với thời điểm cuối thời kỳ tăng trưởng cao.
Hình 6: Tỷ trọng VA ngành CBCT so GDP (%) của một số nước châu Á trong thời kỳ tăng trưởng cao
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và ADB |
Tỷ trọng ngành công nghiệp CBCT của các nền kinh tế nêu trên không chỉ tăng trong GDP, mà còn ở cả trong tổng lao động. Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp (trong đó chủ yếu là ngành CBCT) trong tổng lao động của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore ở thời kỳ tăng trưởng cao đều đạt trong khoảng 30%-35%; đồng thời, tỷ trọng lao động của ngành nông nghiệp đều giảm mạnh, ví dụ như Nhật Bản và Hàn Quốc, lao động nông nghiệp ở cuối thời kỳ tăng trưởng cao chỉ còn khoảng hơn 10%.
Ngành công nghiệp CBCT cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam kể từ khi Đổi mới. Đây là ngành cấp 1 có tỷ trọng lớn nhất trong GDP, đạt gần 23,9% năm 2023 (Hình 7), tuy nhiên, tỷ trọng của ngành trong GDP chỉ tăng 7,9% so với năm 1986. Tuy nhiên, tỷ trọng lao động trong ngành CBCT năm 2023 chỉ ở mức khá (chiếm 22,8% tổng số lao động đang làm việc của cả nước vào năm 2023) và vẫn xếp sau ngành nông nghiệp (chiếm 26,9%). Điều đó phản ánh phần nào ngành CBCT chưa đủ mạnh để có thể giải quyết lao động trong ngành nông nghiệp cũng như chưa đủ mức cho quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam.
Hình 7: Tỷ trọng trong GDP và tốc độ tăng của ngành CBCT của Việt Nam thời kỳ 1986-2023 (%)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của UNSTATS và Tổng cục Thống kê |
Thời kỳ dân số vàng với sự bùng nổ của đô thị hóa
Thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao cũng là thời kỳ các nền kinh tế trên có tốc độ tăng bùng nổ dân số, tạo ra lượng dân số trẻ chiếm tỷ trọng cao trong tổng dân số, hình thành thời kỳ dân số vàng tại các quốc gia này. Điểm đáng chú ý hơn, đó là tốc độ tăng dân số đô thị trong thời kỳ này rất mạnh, đều > 4%/năm, dẫn tới sự thay đổi tỷ trọng dân số đô thị trong nền kinh tế. Mức chênh lệch của tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số giữa cuối kỳ tăng trưởng và đầu kỳ tăng trưởng là rất lớn, như Hàn Quốc là gần 50%, hoặc Trung Quốc là gần 33%.
So với các nền kinh tế trên, tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số Việt Nam vẫn chưa vượt quá 40%, và kém rất xa so với các nền kinh tế trên tại năm cuối thời kỳ tăng trưởng cao. Nguyên nhân là do tốc độ dân số đô thị của Việt Nam tăng chưa đủ mạnh, khoảng 3,3% trong thời kỳ 1986-2023 (Bảng 3). Đồng thời, Việt Nam mặc dù vẫn ở thời kỳ dân số vàng nhưng lại có tốc độ già hóa nhanh hàng đầu trên thế giới (Tổng cục Thống kê và UNFPA, 2021). Điều đó dấy lên lo ngại dân số Việt Nam chưa giàu đã già và trong tương lai sẽ tạo ra gánh nặng lớn cho an sinh xã hội.
Bảng 3: Tốc độ tăng và tỷ trọng dân số đô thị của một số nền kinh tế châu Á
Nền kinh tế | Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số (%) | Tốc độ tăng dân số đô thị (%) | ||
Đầu kỳ | Cuối kỳ | Cuối kỳ - Đầu kỳ | ||
Trung Quốc (1978-2011) | 17,9 | 50,5 | 32,6 | 4,16 |
Nhật Bản (1951-1973) | 52,6 | 74,2 | 21,7 | 4,07 |
Hàn Quốc (1963-1996) | 30,4 | 78,7 | 48,3 | 4,47 |
Đài Loan (1952-1989) | 24,1 | 48,3 | 24,3 | 4,27 |
Việt Nam (1986-2023) | 19,6 | 39,5 | 19,9 | 3,31 |
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của WB và ADB
KẾT LUẬN
Đối sánh với các nền kinh tế châu Á đạt tốc độ tăng trưởng cao được đề cập nêu trên, có thể thấy rõ rằng, các thách thức đối với Việt Nam là khá rõ: Tốc độ tăng trưởng khá nhưng chưa cao, thiếu ổn định; độ mở của nền kinh tế lớn, nhưng xuất khẩu phụ thuộc lớn vào FDI; đầu tư khá cao, nhưng chưa đủ mức, chưa đạt hiệu quả cao; ngành CBCT là chủ lực tăng trưởng, nhưng chưa đủ mức; sắp hết giai đoạn dân số vàng, tốc độ già hóa nhanh và đô thị hóa chưa đủ nhanh. Tuy nhiên, Việt Nam cũng có những lợi thế nhất định cần khai thác để tận dụng các cơ hội mà bối cảnh trong nước và quốc tế đang đem lại. Cụ thể:
Thứ nhất, theo tờ Economist (2024), Việt Nam là quốc gia đã có sự cải thiện về môi trường kinh doanh tốt nhất thế giới trong suốt 20 năm qua (2003-2023). Việt Nam cần tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, coi đó là “đột phá của đột phá”, để khơi thông các điểm nghẽn, tạo các động lực mới và giải phóng các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta cần phải từ bỏ ngay tư duy “quản được đến đâu thì mở đến đó”, “không quản được thì cấm” như dự thảo của văn kiện Đại hội Đảng XIV (Đảng Cộng sản 2024) đề xuất, đặc biệt phải coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất cho đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động…
Thứ hai, Việt Nam cũng đứng hàng đầu thế giới về sự cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), là quốc gia có 14 năm liên tiếp có sự nâng hạng về chỉ số này. Khi xem xét lịch sử phát triển của các quốc gia, sau mỗi “cú ngoặt” của thế giới, như: Cách mạng công nghiệp, chiến tranh, dịch bệnh…, thì sẽ tạo ra cơ hội và thách thức chưa từng có với các quốc gia. Nền kinh tế nào chủ động, sẵn sàng và chấp nhận đổi mới, thì nền kinh tế đó sẽ thay đổi vận mệnh; ngược lại, quốc gia nào không cải cách, không đổi mới, thì sẽ bỏ lỡ cơ hội, bị tụt hậu so với các nước khác. Do vậy, cần tiếp tục luôn phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời các cơ hội, sẵn sàng tiếp cận sớm và ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu này, dù rằng những phương thức mới luôn đi kèm với các rủi ro do chưa có các tiền lệ. Kinh nghiệm của việc chấp nhận mở cửa cho Internet vào năm 1997 theo phương châm “mở trước, điều chỉnh sau”. Chúng ta hoàn toàn có thể phát triển các “sand box” để thí điểm các mô hình mới phát triển kinh tế mới, để từ đó có thể điều chỉnh, nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, bài học từ các nước Đông Bắc Á hiện nay khi xuất hiện tình trạng giảm tỷ lệ sinh song hành với già hóa dân số, tăng gánh nặng cho an sinh xã hội hiện tại và trong tương lai. Do vậy, Việt Nam không chỉ cần coi trọng chất lượng nguồn nhân lực, mà còn cần phải quan tâm đến cả số lượng của dân số, nhất là giữ vững tỷ lệ sinh thay thế. Đồng thời, phải lấy đô thị là động lực cho phát triển vùng, trong đó, cần tập trung nhanh chóng phát triển hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, nhất là tại các đô thị lớn, như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, cũng như giải quyết triệt để, thấu đáo các nút thắt trong phát triển đô thị, như: môi sinh, tắc nghẽn giao thông, xử lý rác thải, nhà ở...
Thứ tư, để bảo đảm có đủ nguồn lực cho các ngành, lĩnh vực then chốt, các công trình, dự án trọng điểm, cần phải đẩy mạnh phòng chống lãng phí, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án đầu tư đang tồn đọng, chậm triển khai để khơi thông, bổ sung nguồn lực cho nền kinh tế. Đồng thời, cần xem xét nghiên cứu nới trần nợ công khi tỷ lệ nợ công của Việt Nam năm 2022 ở mức khá thấp, 37%, thấp thua khá nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới, như: Hàn Quốc (48,1%), Malaysia (65,6%), Trung Quốc (77%), Singapore (168,3%) và Nhật Bản (261,3%) (IMF 2024).
Thứ năm, dựa trên phân hạng của OECD (2011) về phân hạng công nghệ của ngành công nghiệp CBCT, theo Nguyễn Hoàng Hà (2023), trong thời kỳ 2011-2020, đóng góp của ngành công nghệ cao của Việt Nam có chiều hướng tăng mạnh và các ngành có công nghệ thấp đang giảm đi, tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng cao, tới 37%. Chỉ số cạnh tranh công nghiệp (CIP) (UNIDO 2024) của Việt Nam cũng đã được cải thiện rất nhiều, nhưng giá trị tăng thêm của ngành CBCT đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp, chưa đủ mức hoàn thành công nghiệp hóa nền kinh tế. Trong khi đó, không ít các quốc gia phát triển sau một thời gian phi công nghiệp hóa đã quay trở lại đầu tư mạnh mẽ cho ngành này, nhất là trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Đảng và Chính phủ cần phải tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của ngành CBCT trong sự nghiệp phát triển đất nước, xác định đây là hạt nhân của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là ngành trọng tâm trong mô hình tăng trưởng kinh tế từ đây cho đến năm 2045./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ quan Thống kê Liên hiệp quốc (UNSTATS) (2023), National Accounts – Analysis of Main Aggregates (AMA), truy cập từ https://unstats.un.org/unsd/snaama/Index.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia.
3. Economist (2024), Vietnam is the most improved place to do business – according to EIU’s Business Environment Rankings, retrieved from https://www.economistgroup.com/press-centre/economist-intelligence/vietnam-is-the-most-improved-place-to-do-business-according-to-eius-busin%E2%80%A6.
4. Gill, I. và Kharas, H. (2007), An East Asian Renaissance: ideas for economic growth, Nxb Ngân hàng Thế giới.
5. IMF (2024), Gross Public Debt, percent of GDP, truy cập từ https://www.imf.org/external/datamapper/d@FPP/USA/FRA/JPN/GBR/SWE/ESP/ITA/ZAF/IND.
6. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2022), East Asia Dataset 1951-2000.
7. Nguyễn Hoàng Hà (2023), Đánh giá mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam đối với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Luận án tiến sỹ, lưu chiểu tại Thư viện quốc gia.
8. Tổng cục Thống kê (2024), Niên giám Thống kê 2023, Nxb Thống kê.
9. UNIDO (2022), Competitive Industrial Performance Index (CIP).
10. WB (2013), China 2030: building a modern, harmonous, and creative society.
11. WB (2024), World Development Report 2024: the middle-income trap.
12. WB (2024), World Bank Open Data.
13. WIPO (2024), Global Innovation Index 2024.
TS. Nguyễn Hoàng Hà
Trưởng ban, Ban Tổng hợp, Viện Chiến lược phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 02, tháng 01/2025)