Tóm tắt
“Chuyển đổi kép” là ứng dụng công nghệ và dữ liệu giúp thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó, nhân lực nói chung, nhân lực trong các ngành công nghệ cao nói riêng đóng vai trò là chủ thể ứng dụng công nghệ và dữ liệu để thực hiện thành công những mục tiêu “chuyển đổi kép” đặt ra. Trong bài viết này, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu về bối cảnh, xu thế và thực trạng nguồn nhân lực ở một số ngành công nghệ cao then chốt mới nổi phục vụ “chuyển đổi kép” như: công nghệ thông tin, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học…, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao ở Việt Nam.
Từ khóa: “chuyển đổi kép”, nguồn nhân lực, ngành công nghệ cao
Summary
“Dual transformation” is the application of technology and data to promote sustainable development goals, in which human resources in general and human resources in high-tech industries, in particular, play the role of subjects applying technology and data to implement the set “dual transformation” goals successfully. In this article, the group of authors focuses on researching the context, trends and current situation of human resources in some key emerging high-tech industries serving “dual transformation” such as information technology, semiconductors, artificial intelligence (AI), biotechnology, etc., thereby proposing some solutions to develop high-tech human resources in Vietnam.
Keywords: “dual transformation”, human resources, high-tech industry
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển nguồn nhân lực từ lâu đã được Đảng ta xác định là 1 trong 3 nhiệm vụ then chốt và đột phá của đất nước (từ Đại hội XI, XII, XIII). Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Đảng ta cũng khẳng định: “yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực then chốt, trên cơ sở đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục gắn với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Trong bối “chuyển đổi kép” hiện nay ở nước ta, tập trung phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của một số lĩnh vực công nghệ chiến lược, như: vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học, năng lượng mới và vật liệu tiên tiến. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay đang thiếu hụt đội ngũ nhân lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong các lĩnh vực này. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực trong các ngành công nghệ cao phục vụ “chuyển đổi kép” là yêu cầu cấp thiết.
BỐI CẢNH VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM
Phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực công nghệ cao nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao. Trong thời gian qua, đã có nhiều chủ trương, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực công nghệ cao được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 30/01/2023 về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới…; các luật như: Luật Giáo dục đại học (được sửa 33 đổi, bổ sung năm 2018) và một số nghị định hướng dẫn; Luật Khoa học và công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Công nghệ thông tin... Bên cạnh đó, nhiều chiến lược, chương trình, đề án cũng đề cập đến các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực công nhệ cao.
Sự ổn định về chính trị và những thành tựu trong quan hệ đối ngoại mở ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư từ nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực công nghệ, tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193/193 nước thành viên của Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 9 nước (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia). Việc mở rộng và nâng tầm quan hệ với các nước đã khẳng định sự ổn định về chính trị và an ninh, yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, như: AI, bán dẫn, năng lượng tái tạo. Đã có rất nhiều tập đoàn công nghệ đến đầu tư ở Việt Nam, như: Sam Sung, Intel, LG, Canon... Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho nước ta, bởi các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ (công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, kỹ thuật phần mềm, điện tử viễn thông) luôn quan tâm đến số lượng và chất lượng nhân lực, đặc biệt là các kỹ năng mềm, như: tiếng Anh, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, sáng tạo… Nếu chúng ta có sự chuẩn bị tốt, đáp ứng tốt các yêu cầu này, thì sẽ tận dụng được cơ hội thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.
Những thành tựu trong phát triển kinh tế tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao
Kinh tế phát triển trong những năm gần đây đã nâng mức sống của người dân lên cao, tạo điều kiện cho người dân đầu tư vào giáo dục cho con em, từ đó lớp trẻ có cơ hội tiếp xúc nhiều với nền giáo dục tiên tiến, sử dụng thành thạo thiết bị công nghệ thông tin trong học tập cũng như trong đời sống, làm gia tăng mức độ yêu thích công nghệ và có xu hướng lựa chọn đào tạo các ngành công nghệ.
Bên cạnh đó, sự phát triển về kinh tế tạo ra thị trường lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ lớn, là cơ hội để nước ta thúc đẩy và mở rộng việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ và những định hướng chuyển đổi số của Chính phủ mở ra nhiều cơ hội cho việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao
Trong bối cảnh phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành những nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia… Những tiến bộ đột phá của công nghệ số, AI đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và tự động hóa thông minh gắn phát triển chính phủ số, kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế tri thức; những tiến bộ của công nghệ sinh học và năng lượng mới thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Những nghề nghiệp hoặc công việc yêu cầu trình độ chuyên môn, tay nghề thấp nhanh chóng biến mất, một bộ phận lao động hiện có không đáp ứng được yêu cầu công việc mới, trong khi nhu cầu nhân lực có trình độ, kỹ năng cao trong các lĩnh vực công nghệ cao tăng nhanh, nhất là trong lĩnh vực liên quan tới Internet vạn vật (IoT), AI, chuỗi khối (blockchain), thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR), điện toán đám mây. Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết và ưu tiên hàng đầu trong đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi, thu hút và phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao, đặc biệt trong một số lĩnh vực công nghệ mới nổi.
Bên cạnh đó, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 hướng tới “mục tiêu kép” là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam có năng lực vươn ra toàn cầu. Trong hành trình đó, nhân lực số đóng vai trò cốt lõi, quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi số quốc gia.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO CỦA VIỆT NAM
Nguồn nhân lực công nghệ cao của Việt Nam có xu hướng gia tăng
Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2023, tổng số lao động toàn ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) khoảng 1.767.766 người, tăng 2,72% so với năm 2022 (bao gồm đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân viên đang làm việc tại các công ty ICT và bộ phận ICT của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp), chiếm gần 1,1% trong tổng số khoảng 51 triệu lao động. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực cũng như so với nhiều nước phát triển, tỷ lệ nhân lực ICT trên tổng số lao động là khá thấp, thiếu năng lực thực hành nghề nghiệp, khả năng giao tiếp kém, đặc biệt là giao tiếp bằng tiếng Anh.
Những năm gần đây, một số lĩnh vực AI mới nổi thu hút nguồn nhân lực, như: thương mại điện tử, tài chính, y tế, giáo dục và sản xuất. Tuy nhiên, ước tính hiện nay mới có khoảng 300 chuyên gia AI trong lực lượng lao động Việt Nam. Nguồn nhân lực AI của Việt Nam hiện mới đáp ứng được một phần nhu cầu của thị trường, dẫn đến những thách thức không nhỏ trong quá trình đưa AI vận hành vào nền kinh tế [4].
Một trong những ngành mới nổi hiện nay cũng thu hút nguồn nhân lực công nghệ cao đó là ngành công nghệ sinh học. Đội ngũ nhân lực công nghệ sinh học bao gồm những người được đào tạo chuyên sâu trong các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học sự sống và các ngành liên quan khác, như: Kỹ thuật sinh học, Kỹ thuật y sinh và những người được đào tạo chuyên sâu. Hiện có hơn 50 trường đại học trong cả nước đào tạo về công nghệ sinh học, với khoảng 5.500 sinh viên mỗi năm trong lĩnh vực này [5]. Trong bối cảnh các ngành sản xuất bắt đầu phát triển, nhu cầu nhân lực tăng, thì số lượng nhân lực nêu trên chiếm một tỷ lệ khá nhỏ.
Ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đang trên đà phát triển, thu hút nhiều dự án đầu tư lớn từ các tập đoàn đa quốc gia, là cơ hội để Việt Nam cung ứng nguồn nhân lực công nghiệp bán dẫn. Tuy nhiên, hiện nước ta mới có khoảng có 160 trường chuyên ngành đào tạo kỹ thuật công nghệ và 134.000 sinh viên đầu vào mỗi năm tham gia ngành công nghệ, trong đó có 1.400 sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành vi mạch bán dẫn hàng năm [6]; 5.575 kỹ sư thiết kế chip, trong khi nhu cầu nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam là khá lớn, cần khoảng 5.000-10.000 kỹ sư/năm, nhưng hiện nay khả năng đáp ứng chưa đến 20% [7].
Nguồn nhân lực công nghệ cao chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động
Nguồn nhân lực công nghệ cao nói chung đã có sự phát triển mạnh, nhưng vẫn còn hạn chế về cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), nguồn cung nhân lực chuyên môn cao của Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu các ngành công nghiệp công nghệ, nhất là đội ngũ nhân lực nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ bán dẫn. Ngành công nghiệp công nghệ cao đòi hỏi tỷ lệ cao hơn lao động có trình độ đại học và được đào tạo trong các lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học), có thể cao gấp 2 lần so với các ngành nghề khác. Số liệu thống kê năm 2022 của WB cho thấy, tỷ lệ nhân lực đã qua đào tạo nghề hoặc đại học, sau đại học của Việt Nam là 13%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực [3].
Theo số liệu thống kê về việc làm của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động đang làm việc có trình độ đại học trở lên ở nước ta tăng trung bình mỗi năm xấp xỉ 0,6 điểm phần trăm trong giai đoạn 2012-2021, nhưng tới năm 2022 cũng mới chỉ đạt 11,9%, bằng xấp xỉ 2/5 của Thái Lan[1]; 1/3 của Malaysia[2] và 3/10 tỷ lệ bình quân của khối OECD hay và khối EU[3]. Số việc làm chuyên môn kỹ thuật bậc cao của Việt Nam chiếm 7,2% trong tổng số lực lượng lao động có việc làm, giảm mạnh so với năm 2020 (8,6%). Tỷ lệ nữ trong số nhân lực chuyên môn kỹ thuật bậc cao đạt 56,5%, cao hơn so với tỷ lệ lao động nữ đang làm việc (46,8%).
Các chương trình giáo dục STEM tuy có khởi sắc, nhưng vẫn còn thấp
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo đến ngày 30/4/2024, trong tổng số 1.248 chương trình đào tạo đã được kiểm định theo tiêu chuẩn trong nước, thì khối STEM chiếm 312 chương trình (25%); trong 519 chương trình đào tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn khu vực hoặc quốc tế, thì khối STEM chiếm 272 chương trình (52,4%).
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học về khoa học - kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh về quy mô mạng lưới, năng lực đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, các hoạt động khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế, vượt trội so với các lĩnh vực khác. Số sinh viên đại học các ngành STEM tăng khá trong vài năm gần đây. Trong giai đoạn 2019-2023, số sinh viên được tuyển mới vào các ngành STEM tăng trung bình xấp xỉ 10% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của tất cả ngành đào tạo (7%). Năm 2023, số sinh viên đang theo học đại học các ngành STEM đạt xấp xỉ 690 nghìn người, tính trên tổng số sinh viên đại học đạt tỷ lệ 31,4% và tính trên tổng dân số đạt 69 người/một vạn dân, tương đương mức trung bình khối EU. Tuy nhiên, con số này thấp hơn so với nhiều nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là số sinh viên theo học các lĩnh vực thuộc khối khoa học cơ bản (Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên, Toán và thống kê) chỉ chiếm tỷ lệ xấp xỉ 1,5% (thấp hơn 4 lần so với Hàn Quốc, Singapore, Đức và mức trung bình của EU).
Bên cạnh những mặt tích cực, phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao của Việt Nam thời gian qua còn tồn tại một số mặt hạn chế sau:
- Chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung, nhân lực công nghệ cao nói riêng được quy định trong nhiều văn bản luật còn rất nhiều vướng mắc do còn thiếu những chính sách, cơ chế đặc thù và quy định cụ thể về nguồn lực hỗ trợ cho thu hút, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ cao; một số luật chưa có các văn bản hướng dẫn dưới luật, nên rất khó khăn trong quá trình triển khai.
- Với nhu cầu thực tế hiện nay, nhân lực công nghệ cao còn thiếu rất nhiều; tỷ lệ lao động có trình độ cao và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp. Nguồn nhân lực công nghệ cao thiếu năng lực thực hành nghề nghiệp, khả năng giao tiếp chưa cao, nhất là giao tiếp bằng tiếng Anh và các kỹ năng mềm khác.
- Nhân lực công nghệ cao, nhất là nhân lực trong lĩnh vực ICT có sự phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn, như: Hà Nội với 33,8%; TP. Hồ Chí Minh với 56,7% trong tổng số lập trình viên[4]; có sự chênh lệch khá lớn về giới, chủ yếu là nhân lực nam giới, nhân lực nữ giới chiếm rất ít.
- Quan niệm chung của xã hội về các ngành nghề STEM còn lạc hậu, định kiến về giới tính còn nặng nề, công tác truyền thông, tư vấn định hướng ngành nghề chưa được thực hiện hiệu quả, nên lực lượng theo học các ngành này còn ít hơn so với các ngành nghề khác. Bên cạnh đó, năng lực đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và công nghệ nhìn chung còn thiếu và yếu so với các trường đại học tiên tiến trên thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao các ngành STEM.
- Trình độ khoa học - công nghệ và mức độ công nghiệp hóa của nền kinh tế còn thấp, nhu cầu của thị trường lao động hiện tại đối với nhân lực STEM trình độ cao, cũng như nhu cầu hợp tác nghiên cứu và phát triển từ doanh nghiệp còn hạn chế.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ CAO ĐÁP ỨNG “CHUYỂN ĐỔI KÉP” Ở VIỆT NAM
Nhằm phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao trong bối cảnh “chuyển đổi kép” hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, xây dựng Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tạo cơ sở, căn cứ để các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục đào tạo triển khai xây dưng chương trình, kế hoạch phát triển cho ngành. Hoàn thiện, bổ sung công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ. Công tác xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ là một trong những giải pháp có tính chất quyết định và tác động trực tiếp đến sự phát triển của nguồn nhân lực này.
Hai là, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình triển khai, nhất là những quy định liên quan đến ưu đãi trong đào tạo, tuyển dụng và thu hút nhân lực; trong nghiên cứu và phát triển; trong tự chủ đại học; trong phối hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp.
Ba là, sớm nghiên cứu xây dựng trung tâm thông tin, dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm quốc gia về dịch vụ việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) và một số đơn vị có chức năng của các bộ, ngành khác có liên quan.
Bốn là, làm tốt công tác hướng nghiệp đối với học sinh, trong đó tập trung tốt công tác tuyên truyền và có tài liệu hướng dẫn bài bản; có sự kết hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo với lao động - việc làm, như: các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề, các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động, phụ huynh, học sinh... Làm tốt được điều này sẽ giải quyết được cung - cầu lao động hợp lý.
Năm là, đa dạng hóa phương thức tổ chức đào tạo, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực mới; đồng thời, chú trọng đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi và nâng cao trình độ, kỹ năng cho lực lượng lao động, đáp ứng yêu cầu thay đổi công việc trước những tác động của công nghệ, nhất là AI và tự động hóa. Đào tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường nhân lực trong nước, đồng thời có khả năng cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt nhân lực tài năng công nghệ số và AI.
Sáu là, tăng cường đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu, trong đó tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống các phòng thí nghiệm, công nghệ và học liệu số phục vụ đào tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ cao; ưu tiên đầu tư hiện đại cho các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm về các lĩnh vực STEM căn cứ quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm được phê duyệt, các cơ sở đào tạo chủ trì triển khai chương trình đào tạo tài năng căn cứ đề án được phê duyệt triển khai.
Bảy là, mở rộng hợp tác, liên kết trong nước và quốc tế, tăng cường khai thác các nguồn lực xã hội trong đào tạo nhân lực công nghệ cao, tập trung mở rộng quan hệ quốc tế ở các cấp, đặc biệt là với các quốc gia, nền kinh tế có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, các tập đoàn công nghệ lớn và các tổ chức quốc tế để trao đổi kinh nghiệm, hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển công nghệ cao./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2024), Dự thảo Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035 và định hướng tới 2045”.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2023), Báo cáo Tổng kết năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
3. Cao Tân (2024), Phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao, truy cập từ https://nhandan.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-cao-post831544.html.
4. Giang Nam (2024), Việt Nam thiếu nhân lực trí tuệ nhân tạo, truy cập từ https://nld.com.vn/viet-nam-thieu-nhan-luc-tri-tue-nhan-tao 196240717195711907.htm.
5. Hà Linh (2023), Xây dựng đội ngũ nhân lực ngành công nghệ sinh học, truy cập từ https://nhandan.vn/xay-dung-doi-ngu-nhan-luc-nganh-cong-nghe-sinh-hoc-post780442.html.
6. Nhĩ Anh (2024), Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để phát triển công nghiệp bán dẫn, truy cập từ https://vneconomy.vn/nguon-nhan-luc-la-yeu-to-then-chotphat-trien-cong-nghiep-ban-dan.htm.
7. Tú Ân (2023), Phát triển ngành công nghiệp bán dẫn: Nhân lực phải tăng cả chất và lượng, truy cập từ https://baodautu.vn/phat-trien-nganh-cong-nghiep-ban-dan-nhan-luc-phai-tang-ca-chat-va-luong-d198784.html.
ThS. Phạm Mạnh Thùy - Trưởng ban Chiến lược phát triển nhân lực và xã hội
ThS. Đoàn Thanh Tùng - Phó Trưởng ban Chiến lược phát triển nhân lực và xã hội,
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Nương - Ban Chiến lược phát triển nhân lực và xã hội,
Viện Chiến lược phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 02, tháng 01/2025)
[1] Theo số liệu của Văn phòng Thống kê Thái Lan, năm 2022, Thái Lan có gần 12 triệu người tốt nghiệp đại học trở lên trong tổng số 40 triệu người lao động trong độ tuổi 15-64 (http://statbbi.nso.go.th),
[2] Theo số liệu của Cục Thống kê Malaysia, năm 2021, Malaysia có 5,61 triệu người tốt nghiệp đại học trở lên trong tổng số 15,8 triệu người lao động trong độ tuổi 15-64 (www.dosm.gov.my),
[3] Theo số liệu thống kê trung bình các nước OECD năm 2018, số người tốt nghiệp đại học (và trình độ tương đương) trở lên chiếm xấp xỉ 40% tổng số người trong độ tuổi 25-64. (https://stats.oecd.org),
[4] Theo báo cáo năm 2023 của TopDev.