Thực trạng chuyển đổi xanh theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn TP. Hà Nội

Nhận thức rõ vai trò then chốt của chuyển đổi xanh gắn với chuyển đổi số, Hà Nội những năm qua đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hướng tới tăng trưởng bền vững.

TS. Phạm Thị Thanh Vân

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Nhận thức rõ vai trò then chốt của chuyển đổi xanh gắn với chuyển đổi số, Hà Nội những năm qua đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hướng tới tăng trưởng bền vững. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý và sản xuất giúp tối ưu hóa nguồn lực, giảm phát thải, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ công và hiệu quả vận hành. Tuy nhiên, quá trình này vẫn đối mặt với không ít thách thức, từ thể chế pháp lý chưa hoàn thiện, nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế đến mức độ ứng dụng chưa đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển đổi xanh tại Hà Nội, chỉ ra những kết quả và hạn chế, qua đó đề xuất các giải pháp về hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, đào tạo nhân lực và xây dựng cơ sở dữ liệu mở, nhằm hình thành đô thị thông minh - xanh - bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh lâu dài.

Từ khóa: Chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, thành phố Hà Nội.

Summary

Recognizing the critical role of green transformation in association with digital transformation, Hanoi has implemented various measures in recent years to promote sustainable growth. The application of digital technology in management and production has contributed to optimizing resources, reducing emissions, and improving both the quality of public services and operational efficiency. Nevertheless, this process continues to face significant challenges, including an incomplete legal framework, limited availability of high-quality human resources, and uneven levels of application across different sectors and fields. This article analyzes the theoretical and practical foundations of green transformation in Hanoi, highlights its achievements and limitations, and proposes solutions to improve institutional frameworks, develop digital infrastructure, enhance human resource training, and build open databases. These measures aim to foster the development of a smart, green, and sustainable city while strengthening long-term competitiveness.

Keywords: Green transformation, sustainable development, Hanoi city.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chuyển đổi xanh gắn liền với phát triển bền vững là xu thế tất yếu của thế kỷ XXI, phản ánh nỗ lực toàn cầu trong ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và tái cấu trúc mô hình tăng trưởng kinh tế. Đối với thành phố Hà Nội – thủ đô của Việt Nam, nơi tập trung gần 9 triệu dân và đóng góp khoảng 16% GDP cả nước thì yêu cầu chuyển đổi xanh không chỉ xuất phát từ cam kết quốc tế về giảm phát thải, mà còn bắt nguồn từ nhu cầu nội tại cấp bách nhằm cải thiện chất lượng môi trường sống, nâng cao năng lực cạnh tranh và hướng tới phát triển bền vững lâu dài. Chuyển đổi xanh gắn liền với phát triển bền vững không chỉ góp phần nâng cao chất lượng môi trường sống, tối ưu hóa sử dụng tài nguyên mà còn mở ra những ngành kinh tế mới thân thiện với môi trường, có giá trị gia tăng cao. Đây là cơ hội để Hà Nội khẳng định vai trò tiên phong trong đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng thời thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam về phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính. Do đó, chuyển đổi xanh theo hướng phát triển bền vững không đơn thuần là một lựa chọn, mà là con đường tất yếu để Hà Nội phát triển hiện đại, thông minh và bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI XANH

Hiện nay, biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên là thách thức toàn cầu, trong đó chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu. Việt Nam, với cam kết tại COP26 về mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và giới khoa học. Chuyển đổi xanh được hiểu là quá trình tái cấu trúc toàn diện nền kinh tế – xã hội theo hướng phát triển bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Theo OECD (2019) và UNEP (2021), đây là quá trình giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, áp dụng công nghệ sạch và khuyến khích lối sống, mô hình sản xuất – tiêu dùng thân thiện môi trường.

Nội dung cơ bản của chuyển đổi xanh gồm bốn phương diện: i) chuyển đổi năng lượng, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo và thay thế dần nhiên liệu hóa thạch, hướng tới trung hòa carbon; ii) quản lý tài nguyên và chất thải, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên; iii) sản xuất và tiêu dùng bền vững, doanh nghiệp áp dụng mô hình sản xuất sạch, người dân ưu tiên sản phẩm xanh; iv) ứng dụng công nghệ số và đổi mới sáng tạo (IoT, Big Data, AI) vào quản lý đô thị, giám sát môi trường và điều hành hạ tầng, nâng cao hiệu quả quản trị.

Để triển khai hiệu quả, cần thể chế minh bạch, đồng bộ; hạ tầng kỹ thuật và số hiện đại; nguồn nhân lực chất lượng cao; hệ thống dữ liệu mở và cơ chế giám sát xã hội. Chuyển đổi xanh vừa là trách nhiệm quốc tế, vừa là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm công bằng xã hội và cải thiện chất lượng sống người dân.

THỰC TIỄN CHUYỂN ĐỔI XANH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Trong những năm gần đây, Hà Nội đã có những bước đi quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi xanh gắn với chiến lược phát triển bền vững, cụ thể:

Thứ nhất, về thể chế chính sách, theo Quyết định 1259/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch Hà Nội, thành phố phát triển mô hình hành lang xanh chiếm 60% diện tích, gồm 40% bảo tồn và 20% phát triển dựa trên bảo tồn. Thủ đô phát triển theo mô hình chùm đô thị, với khu đô thị trung tâm, 5 đô thị vệ tinh (Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên, Sóc Sơn) và các thị trấn sinh thái, nhằm giảm áp lực nội đô. UBND Hà Nội đã cụ thể hóa Chiến lược quốc gia tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050 qua Kế hoạch hành động, tập trung giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Các mục tiêu môi trường được lồng ghép vào quy hoạch đô thị, giao thông và năng lượng, tạo nền tảng gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Trong các đồ án quy hoạch ngoại thành, xã Đan Phượng phát triển khu đô thị sinh thái vành đai 4 phía đông, hành lang xanh phía tây; Thạch Thất trở thành trung tâm khoa học – công nghệ, giáo dục và nông nghiệp sinh thái; Mê Linh phát triển đô thị dịch vụ gắn nông nghiệp công nghệ cao, giữ vành đai xanh.

Thứ hai, về hạ tầng xanh: Thành phố đã triển khai nhiều chương trình mở rộng không gian xanh, phát triển cây xanh đô thị, hồ điều hòa, công viên, nhằm cải thiện chất lượng không khí và điều hòa vi khí hậu. Theo báo cáo của UBND thành phố Hà Nội, diện tích đất dành cho cây xanh đô thị bình quân đầu người đã tăng dần trong những năm gần đây, dù chưa đạt mức khuyến nghị quốc tế. Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội chú trọng đầu tư hệ thống giao thông công cộng thân thiện môi trường. Tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông đã đưa vào khai thác, hệ thống xe buýt điện VinBus đang mở rộng, góp phần giảm sử dụng phương tiện cá nhân, giảm ùn tắc và khí thải. Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc hình thành mạng lưới giao thông xanh, hiện đại.

Thứ ba, về ứng dụng công nghệ số trong quản lý: Thành phố Hà Nội đã bước đầu triển khai các hệ thống dữ liệu và nền tảng công nghệ phục vụ quản lý đô thị xanh thông minh. Ví dụ như hệ thống camera giám sát giao thông và an ninh công cộng, cơ sở dữ liệu dân cư điện tử, và dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Các ứng dụng này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước mà còn hỗ trợ thu thập thông tin, giám sát chất lượng môi trường và quản lý hạ tầng theo thời gian thực. Việc áp dụng công nghệ số trong quản lý môi trường, giao thông, năng lượng thể hiện bước đi đúng đắn trong việc kết hợp chuyển đổi số với chuyển đổi xanh, tạo nền tảng cho mô hình đô thị thông minh – bền vững.

Thứ tư, ý thức của người dân Thủ đô về bảo vệ môi trường và lối sống xanh ngày càng được nâng cao. Các phong trào như “Ngày Chủ nhật xanh”, “Trồng 1 tỷ cây xanh”, phân loại rác thải tại nguồn hay sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường đã lan tỏa trong cộng đồng. Sự tham gia tích cực của người dân và doanh nghiệp không chỉ giúp giảm áp lực lên hệ thống quản lý nhà nước, mà còn tạo động lực xã hội thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh diễn ra nhanh hơn và bền vững hơn.

Bên cạnh những thành công đạt được, chuyển đổi xanh ở thành phố Hà Nội vẫn còn có những thách thức, hạn chế như sau:

Một là, hạn chế lớn nhất trong chuyển đổi xanh tại Việt Nam và Hà Nội là khung thể chế thiếu đồng bộ, chồng chéo và tính khả thi thấp. Các chính sách về tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, quy hoạch đô thị xanh, năng lượng tái tạo và giao thông bền vững vẫn phân tán trong nhiều luật, nghị định, thiếu thống nhất và cơ chế phối hợp liên ngành. Với Hà Nội – đô thị đặc biệt, tốc độ đô thị hóa cao – sự thiếu đồng bộ khiến nhiều mục tiêu xanh khó triển khai thực chất, thường chỉ dừng ở khẩu hiệu hoặc định hướng. Ví dụ, quy hoạch cây xanh, hồ điều hòa và giao thông công cộng chưa gắn kết với quy hoạch xây dựng và kế hoạch đầu tư công; mục tiêu giảm phát thải chưa có chế tài ràng buộc trách nhiệm sở, ngành. Bất cập này làm giảm hiệu quả quản lý, hạn chế huy động nguồn lực xã hội và khó giám sát tiến độ thực hiện các dự án xanh.

Hai là, chi phí đầu tư công nghệ xanh tại Hà Nội còn quá cao, trong khi nguồn lực tài chính công và khả năng huy động vốn xã hội hóa hạn chế. Các dự án năng lượng tái tạo, xử lý nước thải, rác thải bằng công nghệ hiện đại hay phương tiện giao thông thân thiện môi trường đòi hỏi vốn ban đầu lớn và thời gian thu hồi dài, khiến doanh nghiệp và khu vực công e ngại. Bên cạnh đó, tồn tại khoảng cách lớn giữa chính sách và thực tiễn. Dù thành phố đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch tăng trưởng xanh, cơ chế hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế hay khuyến khích đầu tư vẫn chưa đủ mạnh và chưa đi vào thực chất. Hệ quả là nhiều dự án xanh triển khai chậm, quy mô nhỏ, chưa tạo tác động lan tỏa, khiến chính sách xanh chủ yếu dừng ở mức định hướng.

Ba là, năng lực quản lý và thực thi chính sách của chính quyền cơ sở tại Hà Nội còn hạn chế. Việc vận hành chính quyền hai cấp, bỏ cấp trung gian huyện, trong giai đoạn quá độ có thể gây đứt gãy chuỗi thực thi chính sách chuyển đổi xanh, nhất là các lĩnh vực liên ngành như quản lý môi trường, quy hoạch không gian xanh và phát triển giao thông bền vững, do chính sách xanh đòi hỏi phối hợp đồng bộ giữa nhiều cơ quan, cấp chính quyền. Đồng thời, đội ngũ cán bộ cấp xã phải xử lý khối lượng công việc lớn, chưa được đào tạo bài bản về công nghệ xanh, kinh tế tuần hoàn, quản lý dữ liệu môi trường hay mô hình đô thị thông minh, dẫn đến khó nắm bắt xu thế quản lý hiện đại và chậm thích ứng với yêu cầu mới của chuyển đổi xanh.

Bốn là, nhận thức về xã hội và thị trường xanh tại Hà Nội còn hạn chế. Ở cộng đồng dân cư, dù ý thức bảo vệ môi trường cải thiện, hành vi xanh như phân loại rác tại nguồn, tiết kiệm năng lượng, sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường chưa phổ biến. Về doanh nghiệp, nhiều đơn vị coi tiêu chuẩn sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn hay trách nhiệm xã hội gắn môi trường là chi phí, thay vì cơ hội cạnh tranh. Thị trường sản phẩm xanh chưa phát triển, thiếu cơ chế khuyến khích như ưu đãi thuế, tín dụng xanh hay nhãn sinh thái bắt buộc, khiến cung – cầu yếu và giảm động lực đầu tư công nghệ sạch. Khái niệm “thị trường xanh” chưa rõ, thiếu cơ chế định giá carbon, khung pháp lý giao dịch tín chỉ carbon và hệ thống chứng nhận sản phẩm xanh thống nhất. Do đó, cả người dân và doanh nghiệp còn mơ hồ về lợi ích của chuyển đổi xanh.

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI XANH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thứ nhất, Nhà nước cần khẳng định vai trò “nhạc trưởng” trong chuyển đổi xanh bằng việc hoàn thiện khung pháp luật và cơ chế chính sách làm nền tảng hệ thống. Cần ban hành hệ thống phân loại xanh quốc gia để xác định tiêu chí dự án xanh, làm cơ sở pháp lý phân bổ nguồn lực và giám sát hiệu quả. Đồng thời, xây dựng khung pháp lý thị trường carbon minh bạch, phù hợp chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện giao dịch tín chỉ carbon và khuyến khích giảm phát thải theo cơ chế thị trường. Song song, triển khai tín dụng ưu đãi và quỹ tài chính xanh hỗ trợ dự án năng lượng tái tạo, xử lý chất thải và giao thông bền vững, giảm chi phí công nghệ ban đầu.

Tại Hà Nội, thành phố cần cụ thể hóa cơ chế, chính sách đặc thù. HĐND và UBND cần ban hành Nghị quyết đô thị xanh – thông minh – bền vững, quy định chỉ tiêu cây xanh, không gian mặt nước, năng lượng tái tạo, xử lý rác thải và phát thải carbon. Phối hợp ngân hàng triển khai tín dụng ưu đãi, thành lập Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp xanh, khuyến khích khu vực tư nhân đồng hành với chính quyền.

Thứ hai, doanh nghiệp là lực lượng xung kích trong chuyển đổi xanh, trực tiếp tạo sản phẩm, dịch vụ và giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Tại Hà Nội, doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, áp dụng sản xuất sạch, giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu với sản phẩm thân thiện môi trường giúp mở rộng xuất khẩu, đáp ứng tiêu chuẩn xanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh. UBND Hà Nội cần hỗ trợ doanh nghiệp qua tín dụng xanh, ưu đãi thuế, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và thành lập Quỹ đầu tư xanh, kết hợp cơ chế PPP, thu hút vốn quốc tế như GCF, ADB, JICA, khuyến khích đầu tư đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm xanh, góp phần thúc đẩy chuyển đổi xanh toàn diện.

Thứ ba, để hiện thực hóa phát triển xanh bền vững, Hà Nội cần triển khai đồng bộ các cam kết về chuyển đổi năng lượng, giảm phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính theo lộ trình đo lường được, gắn trách nhiệm với từng ngành, địa phương. Thành phố cần sử dụng bền vững tài nguyên, kiểm soát khai thác và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Song song, thực hiện bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học tại đô thị và ven đô; khuyến khích trồng cây, hoàn thành Chương trình 1 tỷ cây xanh; bảo vệ rừng hiện có, phục hồi diện tích rừng đã khai thác để tăng hấp thụ carbon và chống chịu thiên tai. Đồng thời nâng cao tỷ lệ khu bảo tồn gắn với kinh tế sinh thái và sinh kế bền vững, bảo đảm hài hòa giữa môi trường và an sinh phát triển.

Thứ tư, người dân cần được xác định là trung tâm của chuyển đổi xanh, bởi họ vừa hưởng lợi về môi trường, sức khỏe, chất lượng sống, vừa là chủ thể tham gia và quyết định thành công của quá trình chuyển đổi. Thông qua tiêu dùng xanh, lựa chọn sản phẩm thân thiện môi trường, hạn chế rác thải nhựa, tiết kiệm năng lượng và ưu tiên phương tiện công cộng, mỗi cá nhân góp phần lan tỏa tích cực chủ trương này. Người dân Thủ đô cần chuyển từ lối sống phụ thuộc tiêu dùng “nâu” sang tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế và tôn trọng thiên nhiên, tạo nền tảng xã hội vững chắc cho chuyển đổi xanh. UBND thành phố Hà Nội cần thúc đẩy truyền thông, giáo dục cộng đồng và xây dựng cơ chế khuyến khích, giúp người dân tham gia chủ động, lan tỏa nhận thức và thúc đẩy hành động thực tiễn trong chuyển đổi xanh tại Thủ đô.

KẾT LUẬN

Chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu của thế kỷ XXI, gắn liền với yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Để thực hiện hiệu quả các giải pháp đã đề xuất, thành phố Hà Nội cần hội tụ đủ ba điều kiện: i) có quyết tâm chính trị của cấp ủy, chính quyền từ thành phố đến cơ sở trong việc ưu tiên bố trí nguồn lực, ban hành chính sách cụ thể và kiên định theo đuổi mục tiêu chuyển đổi xanh gắn với phát triển bền vững. ii) có cơ chế tài chính phù hợp, bao gồm việc hình thành quỹ tài chính xanh, mở rộng tín dụng ưu đãi, thu hút hợp tác công - tư, nhằm giảm gánh nặng chi phí đầu tư ban đầu cho các dự án xanh. iii) tạo được sự đồng thuận và tham gia tích cực của toàn xã hội, từ doanh nghiệp đến cộng đồng dân cư, trong thay đổi lối sống, hành vi tiêu dùng và trách nhiệm bảo vệ môi trường. Chỉ khi ba yếu tố này được kết hợp đồng bộ, quá trình chuyển đổi xanh tại Hà Nội mới có thể đạt kết quả thực chất, góp phần xây dựng Thủ đô trở thành đô thị thông minh – xanh – bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Đình Hoàn, Hồ Khánh Duy, & Nguyễn Tuấn Anh (2022). Kinh tế xanh và tăng trưởng xanh ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 4/2022, tr. 45 – 52.

2. Cấn Văn Lực (2024). Hiện thực hóa chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Tham luận tại Tạp chí Kinh tế và Dự báo, ngày 28/11/2024.

3. Nguyễn Trần Thái Dương, Nguyễn Thị Thảo (2021). Kinh tế xanh – Xu hướng tất yếu của phát triển bền vững và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 23.

4. UBND Thành phố Hà Nội (2022). Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2021–2030.

5. Sở Công Thương Hà Nội (2024). Chương trình phát triển công nghiệp xanh và khu công nghiệp công nghệ cao.

6. Sở Tài nguyên & Môi trường Hà Nội (2024). Kế hoạch thí điểm vùng phát thải thấp (LEZ) tại khu vực Hồ Gươm.

7. United Nations Environment Programme (UNEP) (2021). Making peace with nature: A scientific blueprint to tackle the climate, biodiversity and pollution emergencies. Nairobi: UNEP.

8. OECD. (2019). Green Growth Indicators 2019. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/9789264305359-en.

Ngày nhận bài: 19/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 23/9/2025; Ngày duyệt đăng: 28/9/2025