TS. Thân Ngọc Minh
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm phân tích và đánh giá tác động của việc đa dạng hóa nguồn thu nhập đến rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Thông qua việc áp dụng phương pháp mô-men tổng quát (GMM), tác giả đã xây dựng một mô hình để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng, trong đó đặc biệt chú trọng vào yếu tố đa dạng hóa thu nhập. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa dạng hóa thu nhập có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê đối với mức độ rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Dựa trên các kết quả này, tác giả đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Đa dạng hóa thu nhập, rủi ro, ngân hàng thương mại Việt Nam
Summary
This study aims to analyze and evaluate the impact of income diversification on risk in Vietnamese commercial banks. By applying the Generalized Method of Moments (GMM), the author develops a model to identify the factors influencing banking risk, with a particular focus on income diversification. The results indicate that income diversification has a statistically significant adverse effect on the level of risk in Vietnamese commercial banks. Based on these findings, the author provides policy recommendations to improve operational efficiency and mitigate risks for commercial banks in Vietnam in the coming period.
Keywords: Income diversification, risk, Vietnamese commercial banks
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hệ thống ngân hàng trong nước đã chứng kiến sự gia nhập của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Chính điều này đã đặt ra thách thức không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước. Thông thường, hoạt động tín dụng của các NHTM là hoạt động chính và thu nhập từ hoạt động này vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, các ngân hàng đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu thu nhập, ngoài thu nhập từ hoạt động tín dụng, các nguồn thu nhập khác được ngân hàng quan tâm và chú trọng bao gồm: thu nhập từ dịch vụ, thu nhập từ phí, thu nhập từ lãi… (Nguyễn Thị Cành và Hồ Thị Hồng Minh, 2015). Theo đó, việc đa dạng hoá thu nhập sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng, vốn là vấn đề nhận được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu, vì rủi ro này là rủi ro nguy hiểm, có ảnh hưởng hệ thống và đe doạ sự an toàn hệ thống tài chính của các ngân hàng tại một quốc gia (Sanya và Wolfe, 2010). Chính vì vậy, việc nghiên cứu tác động của đa dạng hóa thu nhập đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, là cần thiết, mang ý nghĩa thực tiễn.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Lợi nhuận
Samuelson và Nordhous (1985) định nghĩa, lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng thu về trừ đi tổng chi ra. Trong khi đó, David Begg và cộng sự (2008) cho rằng, lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí.
Tại Việt Nam, đứng trên góc độ doanh nghiệp cũng như NHTM (là doanh nghiệp đặc biệt), lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đó bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh trên cơ sở luật pháp Việt Nam. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và lợi nhuận trên tài sản (ROA) cho thấy hiệu quả của các ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập bằng cách sử dụng vốn chủ sở hữu và tài sản. Ngân hàng càng đa dạng trong việc đưa ra chính sách đầu tư, thì càng có nhiều khả năng thu được lợi nhuận từ việc sử dụng vốn chủ sở hữu và tài sản của mình. Hiệu quả trong quản lý cũng như việc thực hiện chính sách cho vay thận trọng không những tạo điều kiện cho sự tăng trưởng trở lại, mà còn góp phần giảm thiểu nợ xấu của ngân hàng. Điều này đồng nghĩa rằng, khi các NHTM có lợi nhuận cao sẽ ít có động lực hơn trong việc tham gia vào các hoạt động đầu tư với mức độ rủi ro cao (Anjom, W. và Karim, A. M., 2015).
Rủi ro của ngân hàng
Peter Rose (2007) lập luận rằng, rủi ro là mức độ không chắc chắn liên quan đến một vài sự kiện. Bên cạnh đó, rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là những tổn thất xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh ngân hàng (Nguyễn Kim Anh, 2010).
Nhìn chung, các định nghĩa đều thống nhất rủi ro là sự bất trắc, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, gây thiệt hại, nhưng có thể đo lường được. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một đặc tính cố hữu và mang lại rủi ro cho một bên tham gia.
Theo Pyle, D.H (1997), rủi ro bao gồm nhóm rủi ro chủ yếu và nhóm rủi ro thứ yếu. Nhóm rủi ro chủ yếu bao gồm: (i) Rủi ro thị trường: rủi ro liên quan đến giá trị tài sản ròng khi thay đổi các điều kiện thị trường: lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa, nguồn vốn huy động, vốn chủ sở hữu...; (ii) Rủi ro tín dụng: phát sinh khi có sự thay đổi năng lực, khả năng của các bên liên đới trong hợp đồng; (iii) Rủi ro tác nghiệp: phát sinh do sai phạm dẫn đến mất khả năng thanh toán, không đáp ứng được các quy định đúng thời điểm; (iv) Rủi ro thực hiện: phát sinh tổn thất khi khâu tổ chức yếu kém, không giám sát hợp lý nhân viên hoặc không áp dụng các giải pháp quản lý phù hợp.
Trong 4 nhóm rủi ro kể trên, nhóm tác giả tập trung trình bày 2 loại rủi ro, đó là: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, bởi hậu quả của 2 loại rủi ro này đối với hoạt động kinh doanh của NHTM là rất lớn và hệ quả của rủi ro tín dụng là các khoản nợ xấu sẽ gia tăng. Theo Peter Rose (2002), rủi ro phá sản của NHTM biểu hiện ở quy mô nợ xấu ngày càng tăng, giá trị các khoản đầu tư sụt giảm, vốn tự có của ngân hàng sẽ sụt giảm đáng kể; khi đó người gửi tiền nhận biết được tín hiệu này sẽ rút tiền, thậm chí là rút tiền một cách ồ ạt trong cùng một thời điểm khiến cho NHTM không còn cách nào khác ngoài việc tuyên bố mất khả năng thanh toán và đóng cửa. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hiện nay, các ngân hàng chỉ đi đến tuyên bố phá sản khi đã trải qua một quá trình thực hiện nhiều phương án tái cơ cấu mà không hiệu quả như: phục hồi thanh khoản, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc chuyển giao bắt buộc.
Tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng chỉ số Z-core để đánh giá nguy cơ phá sản, khả năng thất bại của của các doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến như nghiên cứu của Boyd và Graham (1986) đưa ra chỉ số Z-score để đánh giá rủi ro phá sản của các tập đoàn tài chính, thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro ngân hàng và vốn chủ sở hữu, thu nhập giảm sẽ làm thâm hụt vào vốn. Đến năm 1988, Hannan và Hanweck đã nghiên cứu và phát triển thêm chỉ số Z-score, nêu ra mối tương tác giữa rủi ro danh mục ngân hàng và vốn chủ sở hữu. Các nghiên cứu tiếp theo của Cihak và Hess (2008), Schaeck và Cihak (2010), Soedarmono và cộng sự (2011) dùng chỉ số Z-score để lượng hóa sự ổn định của ngân hàng và cho thấy, Z-score càng lớn, thì rủi ro phá sản, rủi ro khánh kiệt của ngân hàng càng thấp.
Đa dạng hoá thu nhập của ngân hàng
Đa dạng hóa là một chiến lược quản lý rủi ro kết hợp nhiều loại hình đầu tư trong danh mục đầu tư. Lý do của chiến lược này là một danh mục đầu tư được xây dựng từ các loại tài sản khác nhau nhìn chung sẽ mang lại lợi nhuận dài hạn cao hơn và giảm rủi ro. Đa dạng hóa để hướng đến làm giảm bớt các sự kiện rủi ro, lấy hiệu suất tích cực của khoản đầu tư thay để vô hiệu hóa hiệu suất tiêu cực của khoản đầu tư khác (Sissy và cộng sự, 2016).
Theo Sanya và Wolfe (2010), đa dạng hóa thu nhập đặc biệt quan trọng với một ngân hàng, là một chiến lược quản lý rủi ro không thể thiếu trong các hệ thống ngân hàng. Với nguyên tắc không nên “bỏ trứng vào một giỏ” và các cơ sở lý thuyết đã nêu trên, có thể hiểu đơn giản, đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng là việc ngân hàng gia tăng số lượng các nguồn thu nhập hay cân đối giữa các nguồn thu nhập khác nhau. Theo đó, các ngân hàng không nên chỉ tìm kiếm lợi nhuận từ các hoạt động truyền thống mà nên mở rộng thêm các nguồn thu nhập từ các sản phẩm, dịch vụ khác.
Mercieca và cộng sự (2007) đã xây dựng công thức đo lường đa dạng hóa thu nhập gọi là chỉ số Herfindahl Hischman (HHI). Đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra các cách đo lường đa dạng hóa thu nhập ngân hàng khác nhau. Tuy nhiên, chỉ số HHI được xây dựng gần đây, có tính tổng quát và phù hợp để đánh giá chỉ tiêu này.
Tổng quan nghiên cứu
Nhìn chung, các NHTM có thể thực hiện đa dạng hóa ở nhiều phương diện khác nhau và sự đa dạng hóa cũng có những tác động khác nhau lên rủi ro và lợi nhuận của các NHTM. Bên cạnh một số nghiên cứu thực nghiệm cho kết quả đa dạng hóa thu nhập đem lại lợi ích cho các NHTM như: Stiroh và Rumble (2006), Lanskroner và cộng sự (2005), Baele và cộng sự (2007), Chiorazzo và cộng sự (2008); thì một số nghiên cứu khác lại cho kết quả ngược lại như: Deyoung và Roland (2001), De Jonghe (2010), Fiordelisi và cộng sự (2011). Acharya và cộng sự (2006) phân tích dữ liệu của 105 ngân hàng Ý giai đoạn 1993-1999 và phân tích sự đa dạng hóa danh mục cho vay của ngân hàng theo 2 hướng là đa dạng hóa theo ngành nghề và đa dạng hóa theo loại tài sản trên bảng cân đối kế toán. Các tác giả đã cho thấy, đối với ngân hàng có mức độ rủi ro trung bình, thì đa dạng hóa doanh mục cho vay không ảnh hưởng nhiều hoặc có ảnh hưởng làm tăng, nhưng không đáng kể tới lợi nhuận và làm gia tăng rủi ro; đối với ngân hàng có mức độ rủi ro cao, thì có ảnh hưởng làm giảm lợi nhuận và làm gia tăng rủi ro.
Bên cạnh đó, Sanya và Wolfe (2010) đã phân tích dữ liệu của 226 ngân hàng ở 11 quốc gia mới nổi cho thấy, đa dạng hóa thu nhập đem lại lợi ích cho các ngân hàng, cụ thể là làm tăng chỉ số lợi nhuận được điều chỉnh rủi ro và làm giảm rủi ro phá sản. Ngoài ra, Nguyễn Thị Cành và Hồ Thị Hồng Minh (2015) sử dụng số liệu của 22 NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2007-2013 để phân tích mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập đến khả năng sinh lời của các NHTM tại Việt Nam, cho thấy chỉ số đa dạng hóa thu nhập có tương quan thuận với khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.
Mô hình nghiên cứu
Qua lược khảo các nghiên cứu trước về ảnh hưởng của đa dạng hoá thu nhập đến rủi ro của các ngân hàng, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra như sau:
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu trên mẫu 43 NHTM tại Việt Nam, bao gồm các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần và kể cả các ngân hàng thương mại nước ngoài. Dữ liệu của các biến trong các mô hình được thu thập từ báo cáo tài chính năm đã qua kiểm toán được đăng tải trên website của các ngân hàng trong giai đoạn 2000-2018. Mô hình nghiên cứu là mô hình dữ liệu bảng động, trong đó, biến độ trễ của rủi ro có tương quan với phần dư, nói cách khác, mô hình có hiện tượng nội sinh ở biến này. Để khắc phục hiện tượng này, tác giả sử dụng phương pháp mô men tổng quát (GMM).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng: Kết quả hồi quy với phương pháp GMM
Biến |
Hệ số hồi quy |
riskt-1 |
0,079285 |
diversification |
-5,286776** |
equity |
0,9612994*** |
efficiency |
-0,1413191*** |
size |
0,1413191 |
gdpgrowth |
-17,87304 |
loangr |
-0,5754066 |
depositorgr |
0,9293235 |
Sargan test |
0,7645 |
Ghi chú: *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5%, 1%.
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích của tác giả, 2019
Kết quả hồi quy với phương pháp GMM cho thấy, biến đa dạng hoá thu nhập (Diversification) có ảnh hưởng nghịch chiều đến rủi ro ở mức ý nghĩa 5%. Phát hiện này của tác giả ủng hộ kết quả nghiên cứu của Mercieca và cộng sự (2007) và khác biệt với hầu hết các nghiên cứu trước. Điều này có thể được giải thích là do khi các ngân hàng phân tán rủi ro thông qua việc đa dạng hóa các hoạt động khác nhau, thì mức độ rủi ro càng thấp đi. Điều này đúng với kỳ vọng khi các ngân hàng thay đổi dần cơ cấu tài sản từ tập trung chủ yếu vào các khoản tín dụng sang gia tăng đầu tư vào các tài sản khác đã làm giảm áp lực đối với hệ thống.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến đa dạng hoá có tác động ngược chiều và mang ý nghĩa thống kê với rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hay nói cách khác, đa dạng hóa các khoản đầu tư giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro. Việc đa dạng hoá thu nhập của ngân hàng sẽ là cơ sở để bù trừ rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu các ngân hàng tập trung vào các hoạt động truyền thống, điển hình là tín dụng, thì dự phòng phải trích sẽ tăng lên (do phải thực hiện 2 hoạt động dự phòng là dự phòng chung và dự phòng cụ thể). Ngày nay, mặc dù tín dụng vẫn là hoạt động chính của các NHTM, nhưng việc chuyển dịch cơ cấu thu nhập đã được các NHTM thực hiện theo hướng tăng dần thu nhập từ dịch vụ và phí. Việc mở rộng và tăng cường các hoạt động khác sẽ giúp cho ngân hàng có được thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, như: thu nhập từ hoạt động thẻ, từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, từ hoạt động bảo lãnh, hoặc các nghiệp vụ phái sinh khác. Với việc đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng, họ có thể đa dạng hoá thu nhập và giảm thiểu rủi ro hơn là tập trung vào một hoạt động duy nhất./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. De Jonghe (2010). Back to the basics in banking? A micro-analysisof banking system stability, Journal of Financial Intermediation, 19, 387-417.
2. Fiordelisi F., Marques-Ibanez D., and Molyneux P. (2010). Efficiency and risk in European, Working Paper Series, 1211.
3. Landskroner, Y., Ruthenberg, D., and Zaken, D. (2005). Diversification and performance in banking: the Israeli case, Journal Financial Service Res, 27(1), 27-49.
4. Mercieca, S., Schaeck, K., and Wolfe, S. (2007). Small European banks: Benefits from diversification?, Journal of Banking and Finance, 31, 1975-1998.
5. Nguyễn Thị Cành và Hồ Thị Hồng Minh (2015). Đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 106+107, tháng 01-02, 13-24.
6. Sanya, S,. and Wolfe, S. (2010). Can Banks in Emerging Economies Benefit from Revenue Diversification, Journal of Finance Service Research, 31, 157-175.
7. Sissy, A. M., Amidu M., and Abor J. Y., (2016). The effects of revenue diversification and cross border banking on risk and return of banks in Africa, Research in International Business and Finance, 40(C), 1-18.
Ngày nhận bài: 08/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/6/2025; Ngày duyệt đăng: 20/6/2025 |