Phát triển khoa học công nghệ ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay

Nghiên cứu khái quát một số điển hình nghiên cứu khoa học ở các trường đại học ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra một số hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất giải pháp trong thời gian tới.

ThS. Nguyễn Thị Thanh Hà

Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Email: Nttha.thanhtra@moet.gov.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh thế giới đang bước vào thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã trở thành 2 trụ cột quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của các trường đại học. Việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ không chỉ là nhiệm vụ, mà còn là cơ hội để các trường đại học khẳng định vị thế, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước và khu vực. Nghiên cứu khái quát một số điển hình nghiên cứu khoa học ở các trường đại học ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra một số hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất giải pháp trong thời gian tới.

Từ khóa: Đầu tư ngân sách, phát triển khoa học và công nghệ, trường đại học

Summary

In the context of the Fourth Industrial Revolution and digital transformation, scientific research and technology transfer have become two critical pillars for enhancing the competitiveness and sustainable development of universities. Strengthening research and technology transfer is not only a task but also an opportunity for universities to affirm their position and contribute more significantly to national and regional development. This study outlines several examples of scientific research at Vietnamese universities, identifies existing limitations and shortcomings, and proposes solutions for the future.

Keywords: Budget investment, science and technology development, university

GIỚI THIỆU

Gần đây, năng lực và chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH), công nghệ của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, trong đó có đóng góp quan trọng của các trường đại học. Nhiều cơ sở đào tạo đã đẩy mạnh hoạt động chuyển giao khoa học và công nghệ (KHCN), thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp nhằm đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Hoạt động NCKH của nhiều trường đại học ở Việt Nam trong thời gian qua đã có sự thay đổi về chất, với nhiều sản phẩm đa dạng, hình thức thể hiện phong phú, góp phần nâng cao uy tín, hình ảnh của các trường và mang lại những giá trị thiết thực hơn cho xã hội và các đối tượng có liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng đáng mừng, vẫn còn không ít những “điểm nghẽn” cần được tháo gỡ để nâng cao hơn chất lượng và tính hiệu quả của hoạt động NCKH và đổi mới sáng tạo trong các trường đại học.

PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Một số cơ chế, chính sách

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng đối với hệ thống cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam. Các trường đại học không những là tổ chức KHCN, mà còn là nơi đào tạo nguồn nhân lực KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đồng thời, là nơi ứng dụng KHCN, đặc biệt là công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong đổi mới quản trị nhà trường, đổi mới cách dạy và học.

Hiện nay, Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 quy định, 5 trường, học viện sẽ được tập trung đầu tư, nâng cấp trở thành đại học trọng điểm quốc gia về kỹ thuật, công nghệ, có chất lượng ngang tầm khu vực. Những trường này cùng các đại học quốc gia và một số đại học vùng đóng vai trò hạt nhân, nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược và chuyển đổi số quốc gia.

Theo quy hoạch đến năm 2030, quy mô đào tạo lĩnh vực STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán) của Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu người học, trong đó có 1% trình độ tiến sĩ, 7% thạc sĩ. Ngoài 5 đại học nói trên, Chính phủ ưu tiên đầu tư phát triển các trường có thế mạnh nghiên cứu, đào tạo ngành, lĩnh vực STEM gắn với định hướng phát triển các ngành kinh tế - xã hội trọng điểm của từng vùng.

Thực trạng phát triển khoa học công nghệ của các trường đại học hiện nay

Hiện cả nước có khoảng 2.000 tổ chức KHCN ngoài công lập, gần 1.600 tổ chức công lập, 261 trường đại học, 141.000 nhà khoa học và khoảng 650.000 doanh nghiệp.

Các trường đại học hiện đang tích cực khuyến khích sinh viên, giảng viên, cán bộ nghiên cứu, tham gia vào công tác khoa học. Nhiều trường đã đề ra các chương trình, phương án để thúc đẩy phong trào này bằng các biện pháp thiết thực như: đẩy mạnh nghiên cứu liên ngành, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, tăng cường hợp tác quốc tế. Việc phát triển mạnh NCKH còn góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây chính là cầu nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa lý thuyết và thực tiễn, làm tăng giá trị đóng góp của các trường đại học đối với cộng đồng.

Ngày 3/4/2025, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa Hà Nội đã tổ chức ký kết thỏa thuận hợp tác nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược gắn với hợp tác của doanh nghiệp. Sự kiện này đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của 3 đại học hàng đầu Việt Nam, phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi bên trong đào tạo nhân tài, NCKH, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mục tiêu hợp tác là xây dựng 3 đại học trở thành các trung tâm xuất sắc về đào tạo nhân lực tài năng, thu hút nhân tài, NCKH phục vụ phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược và đổi mới sáng tạo, với sự hợp tác chặt chẽ của các doanh nghiệp. Cụ thể, 3 cơ sở đào tạo sẽ phối hợp xây dựng các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao, đặc biệt là đào tạo sau đại học các ngành trọng điểm, mũi nhọn theo hướng cùng tổ chức đào tạo và nghiên cứu đề xuất cơ chế để học viên tốt nghiệp có thể nhận văn bằng của cả 3 đại học. Đồng thời, triển khai đánh giá, công nhận tín chỉ và tăng cường trao đổi sinh viên theo hình thức “du học tại chỗ”; xây dựng chương trình trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên.

Các nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành, liên lĩnh vực được xây dựng tập trung vào các lĩnh vực như: AI, chip bán dẫn, an ninh mạng, công nghệ chuỗi khối (blockchain), Internet vạn vật (IoT), 5G/6G, năng lượng, robot và tự động hóa, công nghệ số, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử. Các trường cũng đầu tư phát triển các phòng thí nghiệm dùng chung và ưu tiên nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu; tổ chức các hoạt động chung về NCKH, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Bên cạnh đó, các trường đại học trên cả nước chú trọng đẩy mạnh hoạt động NCKH, với nhiều đề tài nghiên cứu đã bám sát nhu cầu thực tế, giàu triển vọng ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Ðại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh là đơn vị tiên phong trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với nhiều bằng sáng chế quốc tế, đạt doanh thu trung bình 250-300 tỷ đồng mỗi năm (Hiếu Đào Tân, 2025). Những kết quả NCKH được thương mại hóa tiêu biểu như: Ứng dụng AI/IoT trong quản lý môi trường tại Vườn Quốc gia Tràm Chim; chip 5G sử dụng công nghệ CMOS 28 nm của TSMC; Hệ thống thử nghiệm vật liệu - cấu kiện chống cháy…

Trường Công nghệ thông tin và Truyền thông, Ðại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị đào tạo và nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ số tại Việt Nam. Ngay từ năm 2017, Trường đã mở mới chương trình đào tạo thạc sĩ khoa học dữ liệu; năm 2019 mở chương trình cử nhân khoa học dữ liệu và AI. Tại đây, sinh viên được đào tạo chuyên môn về nghiên cứu, xử lý, phân tích, biểu diễn dữ liệu; đổi mới sáng tạo, phát triển các hệ thống AI… Tháng 6/2024, Trường ra mắt chương trình đào tạo đầu tiên tại Việt Nam về kỹ sư chuyên sâu đặc thù về trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI).

Một môi trường đào tạo khác về KHCN và AI là Ðại học Kinh tế Quốc dân. Năm 2024, Nhà trường mở mới 5 ngành công nghệ gồm: Khoa học dữ liệu, AI, Kỹ thuật phần mềm, Hệ thống thông tin và An toàn thông tin. Việc mở mới các ngành này có vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa, nâng cao vị thế Nhà trường trong bối cảnh quốc tế, đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên trong thời đại công nghệ số. Điểm nổi bật trong chương trình đào tạo ngành AI và khoa học dữ liệu là nhiều học phần được tổ chức theo hướng thực hành chủ động, nơi sinh viên được trực tiếp làm việc cùng giảng viên, tự mình tìm tòi, khám phá và giải quyết vấn đề. Mô hình này giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề, một năng lực cốt lõi trong bối cảnh AI ngày càng thay thế con người trong nhiều lĩnh vực.

Các trường đại học tư thục cũng không nằm ngoài cuộc đua về công nghệ số, trong đó phải kể đến Trường Đại học Phenikaa với chương trình đào tạo vật liệu thông minh và trí tuệ nhân tạo (ngành Công nghệ vật liệu). Trường thành lập 7 công ty theo mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off) và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup), nhằm thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của Nhà trường. Tiêu biểu là Công ty Phenikaa X - đơn vị dẫn đầu trong nghiên cứu và phát triển công nghệ xe tự hành, robot và máy bay không người lái. Bên cạnh đó Công ty Phenikaa Smart School và Công ty Chuyển đổi số Phenikaa là 2 nhà cung cấp các giải pháp số hóa cho nhiều doanh nghiệp, tổ chức các trường đại học và trường phổ thông trên cả nước, đã ký kết 63 hợp đồng cung cấp giải pháp cho các cơ quan, tổ chức, trường học trong giai đoạn 2022-2024.

Ngày 22/7/2024, Trường đại học CMC thuộc Tập đoàn Công nghệ CMC cũng chính thức công bố chiến lược chuyển đổi "AI University", đào tạo các ngành công nghệ theo chuẩn ABET, các giáo trình cập nhật liên tục trong nước và trên thế giới với cam kết tạo việc làm cho tất cả các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi.

Những động thái trên cho thấy, xu hướng phát triển ngành công nghệ số, nhất là AI tại các trường đại học ở Hà Nội đang trở thành một phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Một số vấn đề đặt ra

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa doanh nghiệp với trường đại học và nhà khoa học tại Việt Nam còn rời rạc, chưa tạo thành hệ sinh thái. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc xây dựng và phát triển thị trường KHCN.

Một là, chưa có sự kết nối giữa giảng viên, nhà nghiên cứu hay các nhóm nghiên cứu với công ty công nghệ để tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm công nghệ. Các sản phẩm nghiên cứu của các trường đại học chủ yếu được công bố trên các tạp chí, diễn đàn khoa học hoặc sách chuyên khảo, trong khi số lượng sáng chế hay các sản phẩm hoàn chỉnh để các doanh nghiệp nhân rộng lại hạn chế.

Hai là, đội ngũ cán bộ giảng dạy cả nước hiện có hơn 85.000 người, song số giảng viên trực tiếp tham gia NCKH vẫn còn khiêm tốn. Một phần do áp lực giảng dạy lớn, phần khác vì chế độ đãi ngộ và điều kiện nghiên cứu chưa thực sự hấp dẫn. Đặc biệt, tại các trường vùng trung du, miền núi, chính sách thu hút, giữ chân nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, dẫn tới tình trạng chảy máu chất xám khi nhiều giảng viên, nhà khoa học giỏi chuyển sang khu vực tư nhân.

Ba là, giữa nhà trường với doanh nghiệp còn thiếu gắn kết. Một số doanh nghiệp lo ngại việc phối hợp đầu tư nghiên cứu tiềm ẩn những rủi ro, khi lợi ích chưa rõ ràng hoặc quy mô dự án chưa đủ lớn. Nhiều nghiên cứu tập trung vào công nghệ mới, chưa có điều kiện thử nghiệm, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng vào thực tế. Các quy định về quản lý tài chính, thủ tục hành chính trong NCKH còn phức tạp, gây khó khăn cho việc tiếp cận và sử dụng các nguồn kinh phí để nghiên cứu.

Bốn là, nguồn kinh phí Nhà nước dành cho NCKH tại các trường đại học còn hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào học phí và một số nguồn thu hợp pháp khác. Mức chi 2% ngân sách cho KHCN được cho là thấp, nhưng nhiều địa phương lại không chi hết do không có nhiều NCKH. Trong khi đó, các trường đại học, nơi sáng tạo nhất, có nhiều nghiên cứu nhất và cũng là nơi tạo ra các thế hệ nhà nghiên cứu đầy tiềm năng, lại chưa được đầu tư xứng đáng. Bên cạnh đó, cơ chế tài chính cho các nhiệm vụ KHCN còn bất cập, khó thu hút và giữ chân các nhà khoa học giỏi, nhất là những người có trình độ cao ở nước ngoài về Việt Nam công tác.

Năm là, cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu còn yếu. Mặc dù đã có sự đầu tư đáng kể, các cơ sở giáo dục còn thiếu môi trường nghiên cứu, học tập quốc tế chuyên nghiệp, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm tiêu chuẩn quốc tế cũng như điều kiện làm việc. Trong khi đó, hệ sinh thái liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - địa phương chưa được hình thành rõ nét.

Sáu là, môi trường pháp lý hiện nay có tiến bộ nhưng chưa thực sự thông thoáng đối với người làm khoa học. Đồng thời, cơ chế tài chính còn nặng tính hành chính. Thủ tục phê duyệt, nghiệm thu đề tài, thanh toán kinh phí còn mang tính “xin - cho”, làm giảm động lực và thời gian dành cho nghiên cứu thực chất.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là các chính sách đột phá chiến lược giúp các nhà khoa học chuyên tâm vào công tác nghiên cứu. Ðây cũng là cơ hội để cơ sở giáo dục đẩy mạnh NCKH, công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước. Theo đó, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng một môi trường NCKH bền vững trong các cơ sở giáo dục đại học, việc đầu tư đúng hướng và đồng bộ các yếu tố nền tảng là hết sức cần thiết. Cần cải tiến cơ chế quản lý đề tài khoa học theo hướng khoán sản phẩm, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục. Xây dựng quỹ hỗ trợ nghiên cứu nội bộ, hỗ trợ kinh phí ban đầu cho ý tưởng mới, đặc biệt là từ sinh viên và giảng viên trẻ.

Các đơn vị nên tích cực đầu tư có trọng tâm vào các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng học thông minh, thiết bị phân tích hiện đại. Kết nối doanh nghiệp, địa phương và quốc tế để mở rộng không gian nghiên cứu, cũng như hình thành mạng lưới đối tác học thuật, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, trao đổi học thuật xuyên quốc gia. Điều này không chỉ tạo động lực cho giảng viên, nhà khoa học mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, con người là trung tâm của mọi hoạt động nghiên cứu. Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng một môi trường NCKH bền vững, cơ sở giáo dục đại học cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nguồn nhân lực KHCN. Theo đó, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghiên cứu cho giảng viên, sinh viên, xây dựng cơ chế đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân giảng viên, sinh viên, nhà khoa học có năng lực, đặc biệt là những người trẻ có tiềm năng.

Đồng thời, nên ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, ổn định, có lộ trình dài hạn, định hướng rõ ràng. Khuyến khích nghiên cứu liên ngành, kết hợp giữa khoa học tự nhiên - xã hội - công nghệ để giải quyết các vấn đề phức hợp. Liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - đào tạo - chuyển giao để tạo ra chu trình khép kín trong trường.

Thứ ba, cần tập trung vào nghiên cứu ứng dụng - đặt hàng - chuyển giao, hướng tới giải pháp thực tiễn, có đầu ra rõ ràng. Để các sản phẩm nghiên cứu không chỉ có giá trị học thuật mà còn phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội, cần thực hiện giải pháp định hướng rõ từ đầu mỗi đề tài. Theo đó, ngoài công bố khoa học, phải xác định vấn đề thực tiễn mà nghiên cứu đang giải quyết, sản phẩm cụ thể là gì, có thể ứng dụng ở đâu. Khuyến khích giảng viên, nhóm nghiên cứu bám sát nhu cầu của địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng để lựa chọn đề tài. Tạo cơ chế để doanh nghiệp và địa phương cùng tham gia vào quá trình xây dựng, triển khai, nghiệm thu đề tài. Nhà trường cần có bộ phận chuyên trách về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đăng ký sáng chế, mô hình hữu ích, thương hiệu...

Thứ tư, tạo cơ chế khuyến khích giảng viên phát triển sản phẩm khởi nghiệp, spin-off hoặc hợp tác sản xuất thử nghiệm. Kết nối với các chương trình quốc gia (NATEC, Techfest, STARTUP Vietnam…) để tìm đầu ra cho sản phẩm nghiên cứu. Bên cạnh đó, cải cách cơ chế quản trị, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao tính minh bạch, linh hoạt trong quản lý tài chính là những điều kiện cần thiết để thúc đẩy NCKH. Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết với doanh nghiệp nhằm nâng cao tính ứng dụng, cùng với việc xây dựng văn hóa nghiên cứu trách nhiệm, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chấp nhận rủi ro và phát triển các quỹ hỗ trợ nghiên cứu dài hạn sẽ là những yếu tố then chốt giúp NCKH phát triển thực chất, hiệu quả và bền vững trong các cơ sở giáo dục đại học.

Thứ năm, để các sản phẩm nghiên cứu tại cơ sở giáo dục đại học không chỉ mang giá trị học thuật mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cần định hướng lại chiến lược nghiên cứu theo hướng ứng dụng, gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn của địa phương, ngành và doanh nghiệp. Các trường cần tích hợp các lĩnh vực khoa học ưu tiên như chuyển đổi số, nông nghiệp thông minh, năng lượng tái tạo, y tế cộng đồng... vào các chương trình nghiên cứu trọng điểm, có mục tiêu rõ ràng về sản phẩm và công nghệ. Đồng thời, cần đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu, chuyển giao, lồng ghép kiến thức về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, sở hữu trí tuệ vào giảng dạy và tổ chức các hoạt động hỗ trợ kỹ năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết doanh nghiệp từ khâu đề xuất đề tài đến triển khai và ứng dụng, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm R&D dùng chung, tạo điều kiện để giảng viên, nhóm nghiên cứu tham gia các dự án thực tiễn. Và cần rà soát, hoàn thiện chính sách liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài sản công nghệ, thúc đẩy các hình thức thương mại hóa như cấp phép sáng chế, thành lập doanh nghiệp khởi nguồn từ nghiên cứu (spin-off/startup), hợp tác theo hợp đồng nghiên cứu hoặc liên doanh phát triển sản phẩm. Việc tham gia hiệu quả vào các mạng lưới, dự án nghiên cứu và chương trình hợp tác quốc tế cũng sẽ giúp nâng cao năng lực ứng dụng.

Thứ sáu, tăng cường ứng dụng công nghệ số đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quy mô và tác động của nghiên cứu thông qua phát triển nền tảng chia sẻ dữ liệu, học liệu mở, áp dụng AI, IoT, Blockchain, BigData... vào quá trình nghiên cứu và thương mại hóa sản phẩm số. Từ đó, góp phần lan tỏa kết quả nghiên cứu ra cộng đồng và xã hội.

Tài liệu tham khảo:

1. Đào Hiền (2025). Dù muốn phát triển theo hướng nghiên cứu nhưng hiện cơ sở giáo dục đại học gặp không ít rào cản, truy cập từ https://giaoduc.net.vn/du-muon-phat-trien-theo-huong-nghien-cuu-nhung-hien-csgddh-gap-khong-it-rao-can-post252332.gd.

2. Hiếu Đào Tân (2025). Gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, truy cập từ https://nhandan.vn/go-diem-nghen-thuc-day-nghien-cuu-khoa-hoc-post867023.html.

3. Thủ tướng chính phủ (2025. Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.

Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/9/2025; Ngày duyệt đăng: 18/9/2025.