TS. Nguyễn Tuấn Trung
Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Kiểm toán nhà nước
Tóm tắt
Qua tổng hợp kết quả kiểm toán do Kiểm toán nhà nước thực hiện từ năm 2015 đến năm 2024, bài viết làm rõ những mâu thuẫn, bất cập về cơ chế, chính sách trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công cũng như những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và phát huy vai trò của Kiểm toán nhà nước trong vấn đề này, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tiền, tài sản nhà nước.
Từ khóa: Quản lý, tài chính công, tài sản công, Kiểm toán nhà nước, cơ chế, chính sách
Summary
Based on a synthesis of audit results conducted by the State Audit Office of Viet Nam from 2015 to 2024, this article clarifies the inconsistencies and shortcomings in mechanisms and policies related to the management and use of public finance and public assets, as well as the issues arising from these. Accordingly, the article proposes directions and solutions to enhance the legal framework for managing and utilizing public finance and assets, while strengthening the role of the State Audit Office in this area. These measures aim to increase the efficiency of managing and using state funds and assets.
Keywords: Management, public finance, public assets, State Audit Office, mechanisms, policies
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiểm toán nhà nước (KTNN) là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Qua hơn 30 năm hoạt động, KTNN đã khẳng định vai trò quan trọng trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (TCC, TSC). Kết quả kiểm toán thời gian qua của KTNN cũng đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng TCC, TSC của các bộ, ngành, địa phương và đơn vị được kiểm toán. Thông qua đó, KTNN đã đưa ra các kiến nghị giúp các cơ quan, đơn vị được kiểm toán chấn chỉnh công tác quản lý, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, tham ô, lãng phí, thất thoát tiền, tài sản Nhà nước; hoàn thiện cơ chế chính sách, đảm bảo quản lý, sử dụng tiền, tài sản Nhà nước đúng pháp luật và có hiệu quả. Kết quả kiểm toán cũng đã cung cấp những thông tin xác thực về tình hình quản lý điều hành ngân sách, tiền, tài sản Nhà nước và có nhiều kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ để làm cơ sở sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong đó đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Luật Ngân sách nhà nước (NSNN), Luật Đất đai, Luật Quản lý thuế, Luật Đầu tư công, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Bảo hiểm xã hội... Vì vậy, việc tổng hợp kết quả kiểm toán để xác định những mâu thuẫn, bất cập về cơ chế, chính sách trong quản lý, sử dụng TCC, TSC, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp khắc phục là cần thiết.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo Luật KTNN năm 2015, TCC bao gồm: NSNN; dự trữ quốc gia; các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; tài chính của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hóa công, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có sử dụng kinh phí, ngân quỹ nhà nước; phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; các khoản nợ công.
TCC bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; tài nguyên thiên nhiên khác; tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tài sản công được giao cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng; tài sản dự trữ nhà nước; tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Điều 4 Luật KTNN năm 2015 cũng quy định, việc quản lý, sử dụng TCC, TSC và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng TCC, TSC của đơn vị được kiểm toán là đối tượng kiểm toán của KTNN.
MỘT SỐ MÂU THUẪN, BẤT CẬP VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH CÔNG, TÀI SẢN CÔNG
Qua kết quả kiểm toán giai đoạn 2015-2024 cho thấy một số mâu thuẫn, bất cập xảy ra tại các lĩnh vực từ quản lý như NSNN, thuế, phí, đầu tư công, đất đai, tài nguyên khoáng sản, doanh nghiệp…, gây ra những khó khăn, vướng mắc, lãng phí nguồn lực của xã hội. Cụ thể:
Đối với quản lý ngân sách nhà nước
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình tổ chức thực hiện Luật NSNN năm 2015 đã bộc lộ một số bất cập như:
(i) Luật NSNN chưa quy định về việc sử dụng NSNN để đầu tư bổ sung vốn điều lệ hoặc hỗ trợ lãi suất cho các ngân hàng chính sách. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 5 Luật Đầu tư công năm 2019 và Luật Đầu tư công năm 2024 quy định “Cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý; cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng chính sách khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ”. Điều này khiến việc xác định tính hợp pháp, hợp lệ của các khoản chi NSNN cần thêm một bước trung gian, ảnh hưởng đến tiến độ lập, thẩm định và phân bổ ngân sách. Cơ quan Tài chính không thể chủ động đề xuất chi từ NSNN cho các nội dung như bổ sung vốn điều lệ hoặc hỗ trợ lãi suất nếu không có quy định rõ hoặc không có chỉ đạo từ cấp có thẩm quyền;
(ii) Việc quy định thẩm quyền điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương giữa Luật NSNN và Luật Tổ chức chính quyền địa phương còn chưa nhất quán, dẫn đến việc một số địa phương không trình Thường trực HĐND mà phải chờ đến kỳ họp của HĐND mới trình để điều chỉnh dự toán, gây nên tình trạng chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ tại một số địa phương…
Đối với quản lý thu thuế, phí, lệ phí
(i) Một số nội dung quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) giữa Luật, Nghị định và thông tư còn chưa thống nhất; văn bản hướng dẫn còn chưa đúng quy định về hoàn thuế GTGT. Điều này dẫn đến có trường hợp hoàn thuế chưa phù hợp hoặc phát sinh nhiều vướng mắc.
(ii) Một số nội dung hướng dẫn tại các quy trình hướng dẫn của ngành Thuế như Quy trình thanh tra thuế ban hành ban hành kèm theo Quyết định số 1404/QĐ-TCT của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế; Quyết định số 879/QĐ-TCT ngày 15/5/2015 của Tổng cục Thuế về quy trình quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế quy định việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thuế còn chưa phù hợp với Thông tư số 06/2021/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ, Luật xử phạt vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 ngày 13/11/2020. Việc quy định chưa phù hợp như trên có thể dẫn đến chưa xây dựng đủ các đề cương, xác định rõ trách nhiệm trong việc cung cấp, giao nhận và lưu trữ hồ sơ thanh tra đầy đủ đảm bảo thuận lợi cho các cơ quan khi kiểm tra lại kết quả thanh tra của Đoàn; đồng thời việc quy định thời hạn chưa phù trong việc ra quyết định xử phạt có thể dẫn đến chậm ban hành quyết định xử phạt, chậm huy động nguồn thu vào NSNN;
(iii) Khoản 3 Điều 10 Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 của Bộ Tài chính có quy định về điều kiện áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư mới (Dự án được hưởng ưu đãi đầu tư phải có Giấy chứng nhận đầu tư, ngoại trừ trường hợp dự án đầu tư trong nước gắn với việc thành lập doanh nghiệp mới có vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam) nhưng khoản 2 Điều 36 Luật Đầu tư năm 2014, khoản 2 Điều 37 Luật Đầu tư năm 2020 quy định dự án của nhà đầu tư trong nước không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư (không phân biệt mức vốn đầu tư là 15 tỷ đồng như quy định tại Điều 45 Luật Đầu tư năm 2005). Tuy nhiên, Thông tư số 96/2015/TT-BTC chưa được sửa đổi, bổ sung để cập nhật quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Đầu tư năm 2020...
Đối với quản lý đầu tư công
(i) Còn thiếu hướng dẫn, quy định về một số loại công việc, cụ thể: chưa có quy định về điều kiện sử dụng cũng như tiêu chuẩn sử dụng đối với dung dịch Polymer do đó các đơn vị vẫn sử dụng dung dịch Bentonit, trong khi nếu áp dụng dung dịch Polymer thì kinh phí giảm khoảng 50% so với Bentonit; chưa có văn bản hướng dẫn về quy cách cọc và cách xác định vị trí cắm mốc giải phóng mặt bằng (GPMB) theo mặt cắt ngang tuyến và theo chiều dọc tuyến dẫn đến việc xác định số lượng mốc GPMB và quy cách mốc GPMB phụ thuộc phần lớn vào chủ quan của chủ đầu tư và tư vấn lập đề cương, dự toán;
(ii) Một số vấn đề mới phát sinh chưa được quy định hoặc quy định chưa phù hợp với thực tiễn như: (a) Quy định xác định giá cát khai thác theo cơ chế đặc thù thực hiện các dự án cao tốc, tuy nhiên đối với các mỏ vật liệu giao cho nhà thầu thi công khai thác theo cơ chế đặc thù khác với các mỏ khai thác thương mại, hiện chưa có quy định các khoản mục chi phí và cách xác định chi phí của các khoản mục để hoàn thành công việc khai thác và đóng mỏ sau khi xong dự án cũng như thẩm quyền phê duyệt các khoản mục chi phí, dẫn đến việc triển khai áp dụng các cơ chế đặc thù ở các địa phương còn lúng túng, nhiều đơn vị chưa dám triển khai áp dụng; (b) Còn có nhiều công trình, dự án lớn, trong đó có những gói thầu có giá trị trên 1.000 tỷ đồng chưa có hướng dẫn, quy định về tỷ lệ phí bảo hiểm, mức khấu trừ bảo hiểm ở bước dự toán đối với các công trình, gói thầu này...
Đối với quản lý đất đai
(i) Việc quy định về đấu giá quyền sử dụng đất (SDĐ) và đấu thầu xác định chủ đầu tư giữa Luật Đất đai, Luật Đấu thầu không rõ dẫn đến sự lúng túng của các địa phương trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật đối với các dự án đầu tư có SDĐ và nhà đầu tư không nhận biết được chính sách của Nhà nước đối với các dự án mà họ muốn bắt đầu đầu tư;
(ii) Về thời điểm xác định giá đất: Khoản 3 Điều 108 Luật Đất đai 2013 quy định “Thời điểm tính thu tiền SDĐ, tiền thuê đất là thời điểm Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ, công nhận quyền SDĐ”. Các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn của địa phương cũng không có nội dung nào quy định rõ về thời điểm bắt đầu các thủ tục xác định giá đất, tiền SDĐ để đảm bảo phê duyệt giá đất, tiền SDĐ cùng thời điểm phê duyệt giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ, loại bỏ tình trạng việc phê duyệt giá đất, tiền SDĐ kéo dài, ảnh hưởng đến việc thu NSNN về tiền SDĐ;
(iii) Việc quản lý chuyển nhượng quyền SDĐ dưới hình thức phân lô bán nền tại các dự án được quy định tại Luật Đất đai 2013, Nghị định 11/2023/NĐ-CP và Nghị định 43/2020/NĐ-CP còn chưa nhất quán;
(iv) Phương pháp xác định giá đất theo phương pháp thặng dư quy định tại Thông tư số 36/2014/TT-BTC còn nhiều bất cập như: (a) Phương pháp thặng dư được dựa trên các giả định về doanh thu và chi phí, dẫn đến kết quả định giá không chắc chắn và thiếu chính xác. Việc thay đổi một chỉ tiêu trong các yếu tố giả định có thể làm thay đổi hoàn toàn kết quả định giá; (b) Nhiều khu vực thiếu thông tin thực tế về chi phí và doanh thu, khiến cho việc áp dụng phương pháp này trở nên khó khăn và không đáng tin cậy; (c) Các yếu tố giả định thiếu hướng dẫn chi tiết và tiêu chuẩn, định mức cụ thể, dẫn đến khó khăn khi thực hiện; (d) Giá trị đất có thể giảm trong thời kỳ kinh tế khó khăn nhưng phương pháp thặng dư thường giả định rằng giá trị đất luôn tăng lên, điều này không phản ánh đúng thực tế thị trường. Những bất cập này dẫn đến chậm trễ trong việc xác định, thẩm định, quyết định giá đất cụ thể, gây ra sự hiểu nhầm và khác biệt trong cách hiểu giữa các bên liên quan…
Đối với quản lý tài nguyên khoáng sản
(i) Quy định về thời gian công khai số lượng khoáng sản khai thác, đất đá bốc xúc thải ra, số phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản còn chưa thống nhất giữa Nghị định số 164/2016/NĐ-CP và Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14;
(ii) Nghị định số 67/2019/NĐ-CP ngày 31/7/2019 về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản còn có nhiều điểm bất cập so với thực tiễn thực hiện;
(iii) Còn ban hành các quy định chưa đầy đủ gây khó khăn trong công tác thực hiện như: (a) Chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện khoản 2 Điều 46 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ đối với dự án hết hạn nhưng doanh nghiệp không đến làm việc do bị giải thể, phá sản hay không lập hồ sơ đóng cửa mỏ. Điều này dẫn đến nếu có trường hợp doanh nghiệp đang khai thác khoáng sản nhưng bị giải thể, phá sản nhưng không lập hồ sơ đóng cửa mỏ sẽ dẫn đến mỏ bị bỏ hoang, tiềm ẩn nguy cơ nguy hiểm, gây ô nhiễm môi trường hoặc mất cắp nguồn tài nguyên (nếu trữ lượng vẫn còn); (b) Luật Khoáng sản chưa quy định cụ thể về công tác điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và UBND cấp tỉnh không có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ này; (c) Pháp luật về khoáng sản chưa quy định cụ thể về trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác (Điều 40 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy định trữ lượng khoáng sản được đưa vào thiết kế khai thác không nhỏ hơn 50% tổng trữ lượng khoáng sản đã phê duyệt đối với khoáng sản rắn và theo Thông tư số 51/2017/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc xác nhận trữ lượng khoáng sản được thực hiện đồng thời với quá trình thẩm định phê duyệt trữ lượng khoáng sản trong báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản, khi nhà đầu tư chưa lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư, trong đó có thiết kế khai thác.
Đối với quản lý tài sản công tại các cơ quan nhà nước
(i) Luật Quản lý, sử dụng TSC hiện nay quy định “cứng” thẩm quyền phê duyệt Đề án sử dụng TSC vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quy định này đã hạn chế tính chủ động của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị cấp dưới trong việc khai thác TSC tại đơn vị sự nghiệp công lập; thời gian ra quyết định phê duyệt Đề án bị kéo dài do phải qua nhiều khâu trung gian; đồng thời, thiếu sự đồng bộ với quy định về thẩm quyền áp dụng cho các hành vi khác liên quan đến quản lý, sử dụng TSC tại cơ quan, tổ chức, đơn vị (mua sắm, thuê, bán, điều chuyển, thanh lý,…);
(ii) Một số hình thức xử lý TSC tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân cần được điều chỉnh, cập nhật cho phù hợp với thực tiễn xử lý tài sản, nhằm bảo đảm việc xử lý tài sản được tiết kiệm, hiệu quả; quy trình xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân chưa phù hợp với thực tiễn phân cấp thẩm quyền quyết định xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân;
(iii) Quy định về khai thác tài sản kết cấu hạ tầng hiện nay còn chưa hợp lý, làm phát sinh thủ tục hành chính không cần thiết đối với một số trường hợp tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ mục đích công cộng không phát sinh nguồn thu từ khai thác tài sản (do vẫn phải lập Đề án khai thác tài sản) và hạn chế các đối tượng được giao quản lý tài sản kết cấu hạ tầng tự khai thác tài sản kết cấu hạ tầng được giao để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng, khai thác tài sản….
Đối với quản lý vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
(i) Quy định chưa rõ ràng về đối tượng chịu thuế GTGT giữa Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) và Luật Thuế GTGT về thanh toán theo hình thức thư tín dụng dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt động của các TCTD do Thuế GTGT là thuế gián thu, trường hợp phải nộp thì TCTD phải thu lại từ khách hàng tiền thuế đã phát sinh từ năm 2011. Điều này không khả thi do khách hàng có thể không còn giao dịch với ngân hàng hoặc đã phá sản, giải thể. Trường hợp TCTD vẫn phải kê khai, nộp thuế cho những khoản thu phí L/C từ năm 2011 thì còn có thể phát sinh tiền chậm nộp. Việc truy thu thuế sẽ tạo áp lực và gánh nặng rất lớn cho việc kê khai và điều chỉnh thuế của khách hàng và ngân hàng trên tờ khai hàng tháng của giai đoạn 14 năm trước, gây khó khăn và ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, một số doanh nghiệp không còn hoạt động, ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các TCTD vì các TCTD đã phát hành báo cáo tài chính, quyết toán thuế, chia cổ tức;
(ii) Quy định về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) còn chưa phù hợp tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (Luật 69) so với Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14; quy định thẩm quyền giám sát vốn của cơ quan đại diện chủ sở hữu còn chồng chéo giữa Luật 69 và Nghị định số 10/2019/NĐ-CP; chưa đồng bộ trong các quy định về thầm quyền quyết định chủ trương đầu tư của cơ quan đại diện chủ sở hữu dẫn đến khó xác định cơ quan chủ quản và chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư giữa Luật số 69 và Luật Đầu tư năm 2014;
(iii) Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ về chuyển DNNN và công ty TNHH MTV do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần (thay thế Nghị định số 59/2011/NĐ-CP) còn quy định thiếu hoặc quy định không rõ ràng gây khó khăn trong việc thực hiện như: Không quy định về việc xử lý tài chính đối với các khoản lợi nhuận, cổ tức được chia từ hoạt động đầu tư tài chính mà đến thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần chưa có “Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên tại tổ chức nhận góp vốn” có nguồn gốc của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc doanh nghiệp do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ, trước thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang công ty cổ phần. Vấn đề này dẫn đến lợi nhuận còn lại, giá trị thực tế doanh nghiệp chưa được phản ánh đầy đủ trên Báo cáo tài chính tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần...
VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Thực tế kết quả kiểm toán và kết quả rà soát của các cơ quan có thẩm quyền đã chỉ ra các mâu thuẫn, bất cập có tác động không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, các nhân cụ thể:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa các Luật, văn bản dưới luật không phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực tài chính trong xã hội.
Thứ hai, tình trạng mâu thuẫn, bất cập giữa các Luật, các văn bản quy phạm pháp luật gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước, người dân, doanh nghiệp trong quá trình áp dụng làm giảm hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, mất lòng tin vào pháp luật.
Thứ ba, hệ thống pháp luật còn chưa phù hợp thực tiễn, áp dụng không thống nhất sẽ dẫn đến cán bộ công chức e ngại ra quyết định vì sợ vi phạm, không dám quyết định hoặc áp dụng không thống nhất giữa các đơn vị. Điều này dẫn đến tình trạng “né việc”, “đùn đẩy trách nhiệm” hoặc phải xin ý kiến các cơ quan cấp trên, nhất là trong các lĩnh vực phức tạp như đầu tư công, đất đai, khoáng sản dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện làm chậm tiến độ công việc đề ra.
Thứ tư, làm mất thời gian, chậm cơ hội đầu tư, sản xuất do doanh nghiệp thường bị kẹt trong “vòng luẩn quẩn” của thủ tục hành chính do không rõ nên áp dụng văn bản nào.
Thứ năm, mâu thuẫn, bất cập của hệ thống pháp luật sẽ ảnh hưởng tới quá trình hội nhập làm giảm tính cạnh tranh, do cách áp dụng luật không đồng đều, doanh nghiệp có thể bị phân biệt đối xử hoặc gặp rào cản trong đấu thầu, tiếp cận vốn, sử dụng TCC, TSC.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH CÔNG, TÀI SẢN CÔNG
Trong bối cảnh toàn cầu hóa gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước như Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng TCC, TSC, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật quản lý TCC, TSC nói riêng.
Hai là, đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, cụ thể: xây dựng chiến lược, định hướng dài hạn; quy định rõ ràng, tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tác động chính sách toàn diện, đa chiều, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong quá trình xây dựng văn bản để có nhiều góc nhìn, quan điểm đa dạng, giúp đánh giá toàn diện, sâu sắc, từ đó nâng cao chất lượng văn bản….
Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật.
Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật nói chung và pháp luật về quản lý TCC, TSC nói riêng.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm điều kiện vật chất trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật; đẩy mạnh việc truyền thông chính sách, tuyên truyền, phổ biến nội dung của các văn bản được ban hành; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong xây dựng, ban hành và thực thi chính sách; định kỳ tổ chức rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật.
Năm là, phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành văn bản từ: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan trung ương trong quản lý các ngành, lĩnh vực và các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tính hiệu lực của cơ chế chính sách, từ đó góp phần hoàn thiện chính sách còn hạn chế, bất cập cũng như giúp các cơ quan có thẩm quyền nâng cao trách nhiệm trong việc ban hành chính sách pháp luật.
Sáu là, phát huy vai trò của KTNN trong việc trong việc giải quyết các mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng TCC, TSC cụ thể:
- Tăng cường vai trò của KTNN trong việc tư vấn và kiến nghị về lập pháp: KTNN cần chủ động tham gia vào quá trình xây dựng và sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng TCC, TSC thông qua việc gửi ý kiến chuyên môn từ kết quả kiểm toán đến các cơ quan lập pháp và Chính phủ ngay từ giai đoạn xây dựng dự thảo luật; đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các văn bản pháp luật có mâu thuẫn, chồng chéo dựa trên thực tiễn kiểm toán.
- Tăng cường giám sát và đôn đốc thực hiện kiến nghị kiểm toán; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong phát hiện và xử lý xung đột pháp luật; nâng cao năng lực chuyên môn của kiểm toán viên nhà nước; tăng cường truyền thông và minh bạch hóa kết quả kiểm toán.
- Tăng cường phối hợp liên ngành: KTNN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan như Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành để thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật. Việc thành lập các tổ công tác liên ngành để rà soát và giải quyết các bất cập pháp luật phát hiện qua kiểm toán và tổ chức hội thảo, tọa đàm định kỳ để thảo luận về các vấn đề pháp lý và đề xuất giải pháp là rất hữu ích, tạo sự đồng thuận trong áp dụng pháp luật, giảm sự chồng chéo giữa các cơ quan.
- Tăng cường vai trò của KTNN trong việc kiểm toán việc ban hành và thực hiện chính sách pháp luật: Hàng năm, cần xây dựng các chủ đề kiểm toán liên quan đến những vấn đề nóng, vấn đề được dư luận xã hội quan tâm. Trong đó, cần đi sâu vào phân tích sự phù hợp của văn bản, chính sách nhằm đưa ra các kiến nghị phù hợp để hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý TCC, TSC của Nhà nước.
KẾT LUẬN
KTNN đã phát huy vai trò là công cụ đắc lực của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng TCC, TSC, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường trách nhiệm giải trình trong quản lý TCC, TSC; phát hiện, ngăn chặn và kiến nghị kịp thời các hành vi lạm quyền của cá nhân, tổ chức được kiểm toán. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN cũng đã phát hiện một số trường hợp quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Đây là có sở để kiến nghị cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ văn bản và các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp, góp phần ngăn chặn các hành vi lợi dụng quyền lực, lách luật, dẫn đến tham nhũng, lãng phí, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tư pháp (2024). Báo cáo số 203/BC-BTP ngày 9/5/2024 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật năm 2023 và phương hướng nhiệm vụ năm 2024.
2. Kiểm toán nhà nước (2015-2024). Báo cáo Tổng hợp kết quả kiểm toán năm của Kiểm toán nhà nước từ năm 2015 đến năm 2024.
3. Kiểm toán nhà nước (2015-2024). Báo cáo kiểm toán của các cuộc kiểm toán thuộc lĩnh vực kiểm toán bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, dự án đầu tư, kiểm toán chuyên đề, hoạt động (không bao gồm các báo cáo kiểm toán phát hành theo chế độ Mật) từ năm 2015 đến năm 2024.
4. Lê Hồng Hạnh (2017). Mô hình xây dựng pháp luật trong nhà nước pháp quyền: Từ lý luận đến thực tiễn. Nxb Tư pháp.
5. Một số tài liệu tại chương trình hội nghị thảo luận, cho ý kiến về bất cập, vướng mắc trong các quy định pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì.
6. Quốc hội (2015). Luật Kiểm toán nhà nước số 81/2015/QH13 ngày 24/6/2015.
7. Quốc hội (2019). Luật số 55/2019/QH14 ngày 26/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước số 81/2015/QH13.
Ngày nhận bài: 29/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/9/2025; Ngày duyệt đăng: 19/9/2025 |