Phát triển cây vú sữa tại tỉnh Sóc Trăng(*): Thực trạng và giải pháp

Để phát triển bền vững cây vú sữa Sóc Trăng, cần quy hoạch vùng trồng chi tiết gắn với sinh thái từng địa bàn, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng.

Nguyễn Anh Tuấn

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

Th.S. Nguyễn Hùng Sơn

Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại

TS. Vòng Thình Nam

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Email: namvt@hcmute.edu.vn

Tóm tắt

Nghiên cứu này phân tích thực trạng phát triển cây vú sữa trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng (cũ), tập trung vào các vấn đề quy hoạch diện tích trồng, hoạt động tổ chức sản xuất, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính để tổng hợp, phân tích số liệu, thống kê so sánh… Kết quả cho thấy nhiều vấn đề còn tồn đọng trong quá trình phát triển, từ đó đề xuất các giải pháp: gia tăng diện tích sản xuất, cải thiện công tác tổ chức sản xuất cũng như thu hoạch, chế biến sau thu hoạch cùng với thúc đẩy các hoạt động để gia tăng tiêu thụ sản phẩm nhằm phát triển cây vú sữa trên địa bàn, góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương.

Từ khóa: Cây vú sữa, phát triển cây vú sữa, phát triển kinh tế, Sóc Trăng

Summary

This study analyzes the current state of star apple cultivation in the former Soc Trang province, focusing on issues such as land-use planning for cultivation, production organization, harvesting, processing, and product marketing. Using qualitative methods to synthesize and compare statistical data, the findings reveal several persistent challenges in the development process. Based on these results, the study proposes solutions including expanding production areas, improving production organization as well as post-harvest processing, and promoting activities to boost product consumption, thereby advancing star apple cultivation and contributing to the local economic development.

Keywords: Star apple, star apple development, economic development, Soc Trang

GIỚI THIỆU

Sóc Trăng được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ, rất thích hợp cho việc phát triển nhiều loại cây ăn quả chất lượng cao. Trong đó, cây vú sữa được xem là một trong những loại cây trồng có tiềm năng lớn. Sóc Trăng cũng là một trong những địa phương có sản lượng vú sữa dồi dào, nổi tiếng cả nước nhờ hương vị thơm ngon và giá trị dinh dưỡng cao (Nguyễn Mạnh Chinh và cộng sự, 2007). Hiện nay, mô hình trồng vú sữa tại địa phương đang phát triển theo hướng chuyên canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Nhờ đó, nhiều hộ nông dân trồng vú sữa đã có đời sống ổn định và khá giả. Tuy nhiên, để cây vú sữa của Sóc Trăng phát triển bền vững và đạt hiệu quả cao vẫn còn phải đối mặt với không ít thách thức, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố then chốt để duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ. Vì vậy, cần tận dụng tối đa các lợi thế về điều kiện tự nhiên cũng như nguồn lực lao động, tổ chức sản xuất… để phát triển cây vú sữa, hướng tới chinh phục các thị trường khó tính trên thế giới.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÂY VÚ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN SÓC TRĂNG

Quy hoạch diện tích trồng vú sữa

Tính đến giữa năm 2023, tổng diện tích trồng vú sữa toàn tỉnh Sóc Trăng đạt hơn 2.300 ha, nổi bật nhất là giống vú sữa Tím (Gia Hân và cộng sự, 2023).

Bảng 1: Diện tích trồng cây vú sữa tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2022-2025

Đơn vị tính: ha

Năm 2022

Năm 2023

Năm 2024

Kế hoạch năm 2025

Tăng trưởng bình quân (%)

Diện tích

2.200

2.300

2.323

2.370

2,25

Nguồn: Sở NN&PTNT Sóc Trăng, 2022-2024

Sự gia tăng về diện tích trồng cây vú sữa không phải là kết quả ngẫu nhiên mà xuất phát từ định hướng quy hoạch của địa phương. Tỉnh Sóc Trăng đặt mục tiêu mở rộng diện tích vú sữa lên khoảng 2.370 ha vào cuối năm 2025, với định hướng tập trung sản xuất theo vùng chuyên canh nhằm kiểm soát chất lượng, đồng nhất mẫu mã, thuận lợi cho việc cấp mã vùng trồng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây là nền tảng để xây dựng thương hiệu vú sữa Sóc Trăng trở thành đặc sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thực tế, chính quyền tỉnh Sóc Trăng đã triển khai mạnh mẽ việc cấp mã số vùng trồng, tính đến năm 2024, Tỉnh đã có hơn 18 mã vùng trồng vú sữa với diện tích khoảng 125 ha của 140 hộ dân tham gia, đồng thời thực hiện tổng cộng 108 mã vùng trồng cho các loại cây ăn quả đặc sản, trong đó có vú sữa, với diện tích hơn 605 ha (Trung Hiếu, 2024). Việc cấp mã vùng trồng không chỉ đảm bảo truy xuất nguồn gốc mà còn tạo điều kiện thuận lợi để Sóc Trăng đàm phán xuất khẩu sang những thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản.

Ngoài ra, Tỉnh còn đẩy mạnh liên kết sản xuất - tiêu thụ, đầu tư khoa học kỹ thuật và đa dạng hóa giống cây nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh sản phẩm. Với định hướng phát triển nông nghiệp thông minh gắn với chế biến và du lịch sinh thái, Sóc Trăng đang dần khẳng định vị thế là vùng chuyên canh vú sữa trọng điểm của cả nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế địa phương.

Tổ chức sản xuất và phát triển cây vú sữa

Sản xuất rải vụ

Quy mô sản xuất vú sữa tại Sóc Trăng những năm gần đây đã có sự chuyển biến rõ nét, việc mở rộng diện tích lên hơn 2.300 ha năm 2023, cho thấy cây vú sữa ngày càng được xem là cây trồng chủ lực, thay thế các loại cây kém hiệu quả. Bên cạnh đó, Tỉnh còn đẩy mạnh xây dựng vùng chuyên canh và ứng dụng kỹ thuật xử lý rải vụ, giúp kiểm soát chất lượng, đảm bảo nguồn cung ổn định quanh năm, hạn chế tình trạng “được mùa mất giá”. Mô hình sản xuất rải vụ bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, thể hiện định hướng sản xuất nông nghiệp bền vững gắn với giá trị gia tăng và chuỗi liên kết, đáp ứng thị trường xuất khẩu, góp phần ổn định thu nhập cho nông hộ.

Bảng 2: Hiệu quả kinh tế từ mô hình trồng cây vú sữa rải vụ

Đơn vị tính: Đồng/ha/vụ

Nội dung

Chính vụ

Rải vụ

1

Phân bón

26.850.000

26.850.000

2

Thuốc BVTV

9.500.000

12.750.000

3

Công phun thuốc

6.000.000

8.000.000

4

Công tưới nước

7.500.000

7.500.000

5

Công rãi phân (khoán)

1.200.000

1.200.000

6

Nhiên liệu tưới nước, phun thuốc

4.080.000

5.200.000

7

Công chăm sóc (cắt tỉa,…)

5.000.000

8.000.000

8

Công bao trái, vật liệu bao trái (khoán)

21.120.000

21.120.000

9

Công thu hoạch, vận chuyển (khoán)

26.400.000

26.400.000

10

Tổng chi

107.650.000

117.020.000

11

Năng suất

20 tấn/ha x 16.000đ/kg

18 tấn/ha x 25.000đ/kg

12

Tổng doanh thu

320.000.000

450.000.000

13

Giá thành sản xuất

5.382,5 đồng/kg

6.501 đồng/kg

14

Lợi nhuận

212.350.000

332.980.000

15

Chênh lệch

120.630.000

Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả

Giống cây vú sữa

Sự đa dạng về giống vú sữa mở ra nhiều cơ hội tiếp cận thị trường trong và ngoài nước, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn trong tổ chức sản xuất và kiểm soát chất lượng. Trong khi giống vú sữa Tím được ưa chuộng nhờ khả năng thích nghi tốt và thị trường ổn định thì các giống như Lò Rèn hay Bơ hồng lại có giá trị cao nhưng đòi hỏi kỹ thuật canh tác cao và thổ nhưỡng phù hợp. Việc chưa đồng bộ về giống khiến chất lượng sản phẩm thiếu nhất quán, gây khó khăn trong xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Do đó, cần sớm hoàn thiện quy hoạch giống theo vùng sinh thái, đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhằm nâng cao giá trị kinh tế và tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mặt hàng quả vú sữa.

Hình thức tổ chức sản xuất

Mô hình tổ chức sản xuất cây vú sữa tại Sóc Trăng hiện vẫn chủ yếu dựa vào quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, với khoảng 70% diện tích do nông hộ tự canh tác, gây khó khăn trong việc áp dụng kỹ thuật đồng bộ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Một số hộ khác tham gia hợp tác xã (HTX) sản xuất, với diện tích còn khiêm tốn, nhưng đã cho thấy hiệu quả rõ rệt về giảm chi phí, ổn định giá bán và tăng khả năng liên kết với doanh nghiệp. Việc mở rộng hệ thống HTX, đặc biệt là các đơn vị đạt chuẩn VietGAP và GlobalGAP, đang tạo nền tảng cho sản xuất vú sữa theo chuỗi giá trị. Tuy nhiên, Tỉnh cần tập trung nâng cao năng lực quản trị HTX và hỗ trợ kỹ thuật cho nông hộ, từ đó hình thành mô hình tổ chức sản xuất tập thể, ứng dụng kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.

Tổ chức vùng nguyên liệu gắn với tiêu chuẩn chất lượng

Việc xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn đang trở thành bước đi chiến lược trong tổ chức sản xuất vú sữa tại Sóc Trăng, nhằm đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt từ thị trường xuất khẩu như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Chính quyền địa phương đã triển khai cấp mã số vùng trồng và thúc đẩy áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP để nâng cao chất lượng và đảm bảo truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, đến nay, diện tích trồng vú sữa được chứng nhận vẫn còn hạn chế do chi phí cao, đã trở thành rào cản tài chính đối với nông hộ trồng nhỏ lẻ. Điều này đòi hỏi cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp để mở rộng vùng trồng đạt chuẩn, từ đó tạo đòn bẩy phát triển bền vững cho ngành quả vú sữa tại địa phương.

Thu hoạch và chế biến

Tùy theo loại giống và điều kiện chăm sóc, sau khi đậu quả khoảng 4-5 tháng, quả vú sữa sẽ được thu hoạch (Lê Minh Trí và cộng sự, 2021). Việc phát triển cây vú sữa tỉnh Sóc Trăng những năm qua dù đạt nhiều kết quả khả quan về diện tích và năng suất, nhưng khâu thu hoạch và chế biến vẫn là điểm nghẽn lớn trong chuỗi giá trị. Tình trạng thu hoạch thủ công dẫn tới thiếu đồng bộ về chất lượng và tổn thất sau thu hoạch cao khiến sản phẩm khó đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, năng lực sơ chế, bảo quản còn hạn chế, việc chế biến sâu gần như chưa phát triển, dẫn đến tình trạng phụ thuộc chủ yếu vào tiêu thụ tươi nội địa. Mặc dù có những mô hình HTX tiên phong đầu tư công nghệ, nhưng quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ cho cả vùng. Bên cạnh đó, những khó khăn về kỹ thuật chế biến và hệ thống logistics yếu kém đang kìm hãm quá trình nâng cao giá trị gia tăng cho ngành vú sữa. Để khai thác trọn vẹn tiềm năng, Sóc Trăng cần ưu tiên chiến lược hiện đại hóa chế biến sau thu hoạch, gắn sản xuất với tiêu chuẩn xuất khẩu, từ đó tạo bước đột phá về chất lượng và hiệu quả kinh tế lâu dài.

Tổ chức công tác tiêu thụ

Sự chuyển dịch từ tiêu thụ tự phát sang liên kết sản xuất - tiêu thụ bài bản đang trở thành điểm sáng trong phát triển cây vú sữa tại Sóc Trăng. Nếu trước đây phần lớn nông hộ phụ thuộc vào thương lái với giá cả bấp bênh, thì hiện nay, nhờ các chương trình xúc tiến thương mại và xây dựng chuỗi liên kết, sản phẩm đã từng bước tiếp cận các kênh tiêu thụ hiện đại và xuất khẩu. Từ năm 2020, Tỉnh đã đẩy mạnh kết nối với các hệ thống bán lẻ lớn trong nước và doanh nghiệp xuất khẩu, giúp ổn định đầu ra và giá bán cho nông dân.

Tổng sản lượng tiêu thụ vú sữa toàn Tỉnh tăng trưởng bình quân 54,36%/năm giai đoạn 2022-2024, trong đó tiêu thụ nội địa chiếm tỷ trọng lớn (56,41%) và xuất khẩu cũng ghi nhận mức tăng tích cực. Đặc biệt, các hoạt động quảng bá như “Tuần lễ vú sữa Tím Sóc Trăng” tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội đã giúp nâng cao hình ảnh sản phẩm và mở rộng thị trường.

Bảng 3: Tình hình tiêu thụ vú sữa VietGAP tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2022-2024

Đơn vị tính: Tấn

Năm 2022

Năm 2023

Năm 2024

Tăng trưởng bình quân (%)

Trong nước

101

213

269

68,59

Xuất khẩu

96

153

181

38,83

Tổng

197

366

450

54,36

Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Sóc Trăng, 2022-2024

Ở lĩnh vực xuất khẩu, việc cấp mã số vùng trồng, chuyển đổi canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP và hỗ trợ HTX xây dựng mô hình sản xuất an toàn đã giúp Tỉnh đạt 181 tấn vú sữa xuất khẩu năm 2024 - gần gấp đôi so với năm 2022. Tuy nhiên, chuỗi liên kết vẫn còn hạn chế khi nông hộ nhỏ lẻ chiếm 70% diện tích, chưa tham gia HTX hoặc hợp đồng bao tiêu. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc tiếp tục mở rộng sản xuất theo hướng tập thể, thúc đẩy phát triển HTX chuyên nghiệp và nâng cao năng lực đàm phán thương mại cho người dân, nhằm đảm bảo phát triển ổn định cho ngành quả vú sữa Sóc Trăng.

NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÂY VÚ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN SÓC TRĂNG

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển cây vú sữa trên địa bàn Sóc Trăng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, về công tác quy hoạch vùng trồng: Tỉnh Sóc Trăng đã đề ra mục tiêu mở rộng diện tích vú sữa lên 2.000 ha vào năm 2030, nhưng thực tế diện tích trồng vú sữa đã vượt xa con số đó; phần diện tích hiện có là do người dân trồng tự phát, dẫn đến tình trạng phát triển nóng, phân bố không hợp lý, nhiều vùng trồng không nằm trong quy hoạch, nên đã tồn tại một số khó khăn trong kiểm soát dịch hại, tổ chức liên kết sản xuất, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng đồng bộ... Nguyên nhân sâu xa đến từ việc quy hoạch mới dừng ở định hướng chung, thiếu dữ liệu nền về đất đai và vùng canh tác phù hợp, chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể... để triển khai thực hiện quy hoạch hiệu quả.

Thứ hai, về mô hình tổ chức sản xuất: Mặc dù số lượng HTX, tổ hợp tác đã tăng lên đáng kể nhưng phần lớn vẫn mang tính hình thức, hoạt động rời rạc, thiếu vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị. Diện tích trồng vú sữa thuộc các HTX chỉ chiếm khoảng 30-35%, còn lại vẫn do các nông hộ trồng manh mún, nhỏ lẻ. Điều này khiến chi phí sản xuất cao, chất lượng không đồng đều và khó đáp ứng yêu cầu từ thị trường xuất khẩu. Tư duy sản xuất nhỏ còn phổ biến, trong khi năng lực quản lý của nhiều HTX lại yếu, thiếu cán bộ chuyên môn về kỹ thuật, thị trường và pháp lý. Đây là rào cản lớn cho việc mở rộng quy mô sản xuất gắn với truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn hóa sản phẩm.

Thứ ba, về kỹ thuật thu hoạch và chế biến sau thu hoạch: Một trong những điểm nghẽn lớn hiện tại là quy trình thu hoạch chưa được tiêu chuẩn hóa. Phần lớn hộ dân thu hái theo cảm quan, không tuân thủ kỹ thuật về độ chín sinh lý, dẫn đến chất lượng quả không đồng đều, ảnh hưởng đến khả năng bảo quản và xuất khẩu. Tỷ lệ áp dụng kỹ thuật xử lý ra hoa nghịch vụ còn thấp, do chi phí cao, trong khi việc đầu tư vào sơ chế và chế biến sâu hầu như chưa được triển khai rộng rãi. Hiện 98% sản lượng vẫn tiêu thụ dưới dạng quả tươi, chủ yếu bán qua thương lái, không qua công đoạn sơ chế chuyên nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn, thiếu thông tin thị trường và quy mô vùng nguyên liệu chưa đủ lớn để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào dây chuyền chế biến bài bản.

Thứ tư, về công tác tiêu thụ: Tiêu thụ vẫn là khâu yếu nhất trong toàn bộ chuỗi giá trị cây vú sữa tại Sóc Trăng. Mặc dù sản lượng tiêu thụ ngày càng tăng, nhưng lượng xuất khẩu vẫn chưa chiếm tỷ lệ lớn, chủ yếu nhờ các HTX lớn và vùng trồng được cấp mã số. Phần lớn nông dân vẫn phụ thuộc vào thị trường nội địa, giá cả dễ biến động theo mùa vụ. Thị trường xuất khẩu chịu nhiều rào cản kỹ thuật, trong khi năng lực xúc tiến thương mại của địa phương và HTX còn hạn chế, thiếu chiến lược tiếp thị sản phẩm bài bản. Đặc biệt, thương hiệu “vú sữa Sóc Trăng” chưa được xây dựng bài bản cả ở thị trường trong nước lẫn quốc tế, dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu trước các sản phẩm cùng loại như vú sữa Lò Rèn của Tiền Giang và nhiều nơi khác.

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÂY VÚ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SÓC TRĂNG

Để phát triển bền vững cây vú sữa trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp sau:

Một là, phát triển quy hoạch và quy mô diện tích trồng: Trước hết, cần quy hoạch vùng trồng vú sữa một cách bài bản, khoa học và gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển nông nghiệp đặc sản của địa phương. Quy hoạch không chỉ cần xác định rõ những vùng đất phù hợp về điều kiện thổ nhưỡng và thủy văn như ven sông Hậu, sông Mỹ Thanh, mà còn phải tính đến yếu tố thích nghi sinh thái, rủi ro thiên tai và khả năng chống chịu với hạn mặn. Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ cơ cấu giống, tránh tình trạng lẫn lộn giống kém chất lượng, là nguyên nhân làm suy giảm chất lượng đồng đều và phá vỡ liên kết chuỗi giá trị. Cần ưu tiên phát triển các giống có tiềm năng thương mại cao như vú sữa Lò Rèn, vú sữa Tím, đồng thời từng bước thử nghiệm các giống mới nhằm tăng tính đa dạng hóa sản phẩm. Ngoài ra, Sóc Trăng cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quy hoạch, đặc biệt là xây dựng hệ thống dữ liệu không gian (GIS), bản đồ vùng trồng, mã số vùng sản xuất để làm cơ sở cho công tác quản lý, dự báo thị trường và truy xuất nguồn gốc. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để tiến tới xuất khẩu chính ngạch và mở rộng thị trường quốc tế trong dài hạn.

Bên cạnh đó, cần quy hoạch cả khâu sau thu hoạch; đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng sơ chế - chế biến. Hiện tại, phần lớn sản phẩm vẫn tiêu thụ dạng quả tươi, giá trị sản phẩm thấp và dễ ảnh hưởng khi thị trường biến động. Vì vậy, cần ưu tiên xây dựng các nhà máy sơ chế - chế biến tạo ra sản phẩm đa dạng như: trái cây sấy, nước ép, siro… Đồng thời, nghiên cứu sản phẩm mới, mở rộng kênh tiêu thụ và nâng cao chuỗi giá trị.

Hai là, giải pháp tổ chức sản xuất: Tổ chức sản xuất vú sữa ở Sóc Trăng không thể tiếp tục theo hình thức nhỏ lẻ, tự phát. Giải pháp trọng tâm là phát triển các mô hình tập thể như HTX, tổ hợp tác, giúp tập trung diện tích, đồng bộ quy trình sản xuất, giảm chi phí và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Quá trình này cần sự điều phối thống nhất từ các cấp quản lý, đảm bảo sản xuất theo quy hoạch và gắn kết chặt chẽ giữa nông hộ với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy áp dụng quy trình sản xuất an toàn (VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ), song song với đào tạo thực hành cho nông dân và nâng cao năng lực quản trị cho HTX. Điều này sẽ giúp không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn gia tăng giá trị xuất khẩu, từ đó đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu nông sản quốc gia (Phạm Văn Tuấn, 2021). Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý vùng trồng, dự báo thị trường và mở rộng kênh tiêu thụ trực tuyến cũng là chìa khóa để ngành quả vú sữa Sóc Trăng bứt phá.

Ba là, giải pháp nâng cao công tác thu hoạch và chế biến: (1) Về công tác thu hoạch, Sóc Trăng cần chuẩn hóa kỹ thuật xác định thời điểm thu hoạch dựa trên cơ sở khoa học; phổ biến dụng cụ và phương pháp thu hái hiện đại nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; áp dụng các phương pháp bao trái tiền thu hoạch nhằm bảo vệ quả, đảm bảo năng suất và chất lượng (Nguyễn Thị Thuở và cộng sự, 2023); đồng thời hình thành các dịch vụ thu hoạch chuyên nghiệp thông qua HTX hoặc doanh nghiệp dịch vụ, vừa giải quyết tình trạng thiếu lao động vừa bảo đảm chất lượng sản phẩm. Cùng với đó, việc thiết kế lại quy trình thu hái - từ khâu vận chuyển nội đồng, phân loại tại vườn cho đến sơ chế ban đầu - sẽ giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng, kéo dài thời gian bảo quản và nâng cao giá trị sản phẩm. Chú trọng quản lý mùa vụ và điều tiết sản lượng thông qua kỹ thuật xử lý ra hoa nghịch vụ, giúp kéo dài thời gian cung ứng, giảm áp lực dư thừa trong chính vụ và ổn định giá bán. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật và chính sách để khuyến khích nông dân áp dụng. Nếu thực hiện đồng bộ, Sóc Trăng không chỉ hạn chế tổn thất và nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn có thể định vị vú sữa như một ngành hàng nông sản chiến lược, đủ khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ thị trường trong nước và quốc tế; (2) Về công tác chế biến, giải pháp trọng tâm là xây dựng quy hoạch tổng thể cho ngành chế biến gắn với vùng nguyên liệu và nhu cầu thị trường. Quy hoạch cần có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, HTX và nông hộ để bảo đảm nguồn nguyên liệu đạt chuẩn. Đồng thời, Sóc Trăng phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ chế biến đa dạng để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng cao, việc này không chỉ giúp giảm áp lực tiêu thụ trái tươi mà còn mở đường cho sản phẩm thâm nhập các thị trường khó tính.

Bốn là, giải pháp phát triển công tác tiêu thụ: Sóc Trăng cần thúc đẩy mô hình liên kết chuỗi thông qua hợp đồng kinh tế rõ ràng giữa nông hộ, HTX và doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đóng vai trò cầu nối thị trường, nông dân không chỉ yên tâm về đầu ra mà còn được định hướng sản xuất theo nhu cầu cụ thể của người mua, từ chủng loại, tiêu chuẩn chất lượng cho đến thời gian cung ứng. Tuy nhiên, để mô hình này thực sự bền vững, địa phương cần xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, đồng thời có cơ chế giám sát và bảo vệ quyền lợi cho các bên khi thị trường biến động. Bên cạnh liên kết, việc xây dựng thương hiệu giữ vai trò chiến lược. Hiện nay, phần lớn vú sữa Sóc Trăng vẫn chỉ được tiêu thụ chung dưới tên gọi “vú sữa miền Tây” hoặc “vú sữa Việt Nam”, khiến giá trị đặc thù của sản phẩm địa phương chưa được khẳng định. Muốn thay đổi, Sóc Trăng phải triển khai chiến lược thương hiệu một cách bài bản, từ đăng ký chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể đến hoạt động quảng bá, thiết kế bao bì và xúc tiến truyền thông. Thương hiệu mạnh không chỉ tạo giá trị gia tăng trực tiếp cho sản phẩm, mà còn mở cánh cửa đưa vú sữa Sóc Trăng vào các kênh phân phối cao cấp, từ siêu thị trong nước đến chuỗi bán lẻ quốc tế.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam hướng tới phát triển bền vững, cây vú sữa tại Sóc Trăng đã chứng minh tiềm năng trở thành ngành hàng giá trị cao, vừa gắn liền với sinh kế nông dân, vừa đóng góp tích cực cho tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp địa phương. Những kết quả như mở rộng diện tích, hình thành vùng chuyên canh, áp dụng kỹ thuật mới và phát triển HTX cho thấy quyết tâm của Tỉnh trong việc định vị vú sữa là cây trồng chiến lược. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn tồn tại nhiều hạn chế: sản xuất còn manh mún, thiếu đồng bộ; hoạt động chế biến, bảo quản chưa đáp ứng yêu cầu thị trường, tiêu thụ phụ thuộc vào thương lái; trong khi xuất khẩu còn hạn chế và chưa bền vững. Nguyên nhân chủ yếu đến từ quy hoạch chưa cụ thể, hạn chế trong việc áp dụng kỹ thuật, thiếu gắn kết giữa sản xuất với thị trường, giữa chuỗi liên kết giá trị.

Để phát triển bền vững cây vú sữa, Sóc Trăng cần quy hoạch vùng trồng chi tiết gắn với sinh thái từng địa bàn, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng. Bảo hiểm nông nghiệp, chính sách tín dụng và các chính sách hỗ trợ khác cần được triển khai đồng bộ. Ở cấp độ cao hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu vú sữa Sóc Trăng là nhiệm vụ then chốt để quả vú sữa khẳng định vị trí trên bản đồ nông sản Việt Nam. Đây cũng là yêu cầu đặt ra đối với TP. Cần Thơ sau khi hợp nhất với tỉnh Sóc Trăng và Hậu Giang.

(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.

Tài liệu tham khảo:

1. Gia Hân và An Vũ (2023). Cơ hội từ vú sữa tím Sóc Trăng, Tạp chí Công Thương điện tử. https://tapchicongthuong.vn/magazine/co-hoi-tu-vu-sua-tim-soc-trang-112412.htm

2. Lê Minh Trí, Trần Thị Hồng và Nguyễn Thị Ngọc (2021). Kinh tế cây ăn trái tại đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Nông nghiệp.

3. Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2007). Trồng - chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh Xoài - Vú Sữa - Sapo - Dừa, Nxb Nông nghiệp.

4. Nguyễn Thị Thuở và cộng sự (2021). Ảnh hưởng của bao trái tiền thu hoạch đến chất lượng trái vú sữa tím tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.

5. Phạm Văn Tuấn (2021). Phân tích hiệu quả kinh tế sản xuất cây vú sữa, Tạp chí Khoa học Kinh tế, Số 8, tr. 15-22.

6. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sóc Trăng (2022). Báo cáo nội bộ sản xuất cây ăn trái tỉnh Sóc Trăng năm 2022.

7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sóc Trăng (2023). Báo cáo nội bộ sản xuất cây ăn trái tỉnh Sóc Trăng năm 2023.

8. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sóc Trăng (2024). Báo cáo nội bộ sản xuất cây ăn trái tỉnh Sóc Trăng 2024.

9. Trung Hiếu (2024). Sóc Trăng mở rộng diện tích cây ăn quả đặc sản phục vụ xuất khẩu, Báo Tin tức và Dân tộc. https://dantocmiennui.baotintuc.vn/soc-trang-mo-rong-dien-tich-cay-an-qua-dac-san-phuc-vu-xuat-khau-post354891.html

Ngày nhận bài: 16/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/9/2025; Ngày duyệt đăng: 22/9/2025