TS. Nguyễn Hải Hưng
Cục Kế hoạch - Tài chính, Bộ Tài chính
Email: nguyenhaihung@mof.gov.vn
Tóm tắt
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc ủy quyền cho tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ lợi ích công cộng, công dân và toàn xã hội. Việc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước cần được đặc biệt quan tâm trong bối cảnh hiện nay nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước. Nghiên cứu phân tích các quy định và thực trạng xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công hiện nay, xác định những yếu tố ảnh hưởng, từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị với các cơ quan liên quan.
Từ khóa: Dịch vụ sự nghiệp công, tiêu chuẩn, tiêu chí, chất lượng dịch vụ sự nghiệp công
Summary
Public service activities financed by the state budget constitute services either directly administered by the State or delegated to authorized organizations, with the overarching aim of serving the public interest, individual citizens, and society as a whole. The formulation and implementation of standards and criteria for assessing the quality of such publicly funded services merit particular attention in the present context, as they are essential for improving service quality and enhancing the efficiency of state budget utilization. This study analyzes the regulatory framework and the current practices regarding the development and application of quality assessment standards and criteria for public services, identifies the key influencing factors, and, on that basis, advances proposals and policy recommendations to the relevant authorities.
Keywords: Public services, standards, criteria, service quality.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Dịch vụ sự nghiệp công
Dịch vụ công là những dịch vụ do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc ủy quyền cho các tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ lợi ích chung, thiết yếu của công dân và toàn xã hội. Dịch vụ sự nghiệp công (DVSNC) bao gồm các hoạt động cung ứng dịch vụ trong nhiều lĩnh vực thiết yếu như: giáo dục và đào tạo, y tế - dân số, văn hóa, thể thao và du lịch, thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ, các hoạt động kinh tế và các lĩnh vực khác được pháp luật quy định.
Dựa trên nguồn kinh phí hoạt động DVSNC được chia thành: (i) DVSNC sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước (NSNN) là những dịch vụ mà chi phí hoạt động được Nhà nước đảm bảo toàn bộ hoặc một phần; (ii) DVSNC không sử dụng kinh phí NSNN được thực hiện theo cơ chế xã hội hóa, đơn vị cung ứng tự chủ về tài chính, tự trang trải chi phí hoạt động.
Phân biệt này không chỉ đơn thuần về mặt tài chính, bởi các dịch vụ được tài trợ từ NSNN thường gắn liền với yêu cầu cao hơn về trách nhiệm giải trình công khai và hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Điều này tất yếu dẫn đến kỳ vọng rằng các tiêu chuẩn và cơ chế đánh giá chất lượng đối với nhóm dịch vụ này cần được thiết kế một cách đặc thù, có thể nhấn mạnh hơn vào các yếu tố như tính công bằng, minh bạch và hiệu quả chi phí so với các dịch vụ đã xã hội hóa hoàn toàn (dịch vụ được cung cấp không sử dụng NSNN).
Vai trò của dịch vụ sự nghiệp công
DVSNC đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, trực tiếp đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân và cộng đồng. DVSNC góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển nguồn nhân lực, duy trì sự ổn định xã hội ở tất cả các lĩnh vực.
Việc Nhà nước đảm bảo cung cấp các DVSNC thiết yếu, đặc biệt là cho các đối tượng yếu thế và ở những vùng khó khăn, thể hiện vai trò điều tiết của Nhà nước, hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển công bằng, bình đẳng và bền vững. Do đó, để đảm bảo vận hành và phát triển của xã hội, Nhà nước phải dùng NSNN để tài trợ cho các chủ thể cung cấp DVSNC.
Chất lượng DVSNC không chỉ ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dân mà còn tác động trực tiếp đến uy tín của Nhà nước, hiệu quả sử dụng NSNN và sự phát triển chung của đất nước. Chất lượng được đánh giá qua các tiêu chí cơ bản nhất mà DVSNC phải tập trung vào như: sự sẵn có, khả năng tiếp cận dễ dàng của mọi người dân đối với dịch vụ và việc dịch vụ đó phải đáp ứng các chuẩn mực tối thiểu về an toàn và hiệu quả. Chỉ sau khi đảm bảo được những yếu tố nền tảng này, mới nên xem xét đến các yếu tố nâng cao hơn, chẳng hạn sự tiện nghi hay các thuộc tính giá trị gia tăng khác của DVSNC.
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH, XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
Khung pháp lý
Văn bản quy phạm pháp luật hiện nay điều chỉnh việc đánh giá chất lượng DVSNC gồm:
Quy định chung về tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN
Mặc dù Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 không trực tiếp quy định các tiêu chí chất lượng dịch vụ, nhưng việc hoàn thiện khung pháp lý về đấu thầu theo hướng minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả hơn góp phần lựa chọn được các nhà cung cấp dịch vụ có năng lực và chất lượng tốt hơn, từ đó gián tiếp nâng cao chất lượng DVSNC.
Các yêu cầu khi giao nhiệm vụ và nội dung đặt hàng cung cấp DVSNC phải bao gồm chất lượng DVSNC theo tiêu chí, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, được quy đinh tại Nghị định số 32/2019/NĐ-CP. Điều này cho thấy yêu cầu về chất lượng đã được luật hóa ngay từ khâu giao và đặt hàng dịch vụ.
Danh mục DVSNC sử dụng NSNN tuân theo nội dung quy định của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP và Nghị định số 111/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP.
Quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN trong một số lĩnh vực cụ thể
Lĩnh vực Lưu trữ: Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-BNV quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng DVSNC sử dụng NSNN thuộc lĩnh vực Lưu trữ. Các tiêu chí, tiêu chuẩn làm cơ sở để đánh giá chất lượng và nghiệm thu sản phẩm dịch vụ cho các hoạt động như thu thập, chỉnh lý, bảo quản và sử dụng tài liệu lưu trữ Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam. Phương thức đánh giá chất lượng chủ yếu là "Đạt" hoặc "Không đạt" dựa trên việc đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật.
Lĩnh vực Bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức: Được quy định tại Thông tư số 07/2023/TT-BNV, về áp dụng phương thức chấm điểm theo thang điểm 100 để đánh giá chất lượng dịch vụ, với các mức xếp loại: Tốt (từ 70 đến dưới 80 điểm), Đạt (từ 50 đến dưới 70 điểm), Không đạt (dưới 50 điểm). Các nhóm tiêu chí đánh giá bao gồm: chương trình, tài liệu bồi dưỡng, học viên, giảng viên, cơ sở vật chất và các hoạt động hỗ trợ, khóa bồi dưỡng và hiệu quả bồi dưỡng.
Lĩnh vực Y tế: Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 6858/QĐ-BYT, gồm 83 tiêu chí, được chia thành 5 phần chính: (A) Hướng đến người bệnh (19 tiêu chí), (B) Phát triển nguồn nhân lực bệnh viện (14 tiêu chí), (C) Hoạt động chuyên môn (38 tiêu chí), (D) Hoạt động cải tiến chất lượng (8 tiêu chí), và (E) Tiêu chí đặc thù chuyên khoa (4 tiêu chí). Trước đó, Thông tư số 19/2013/TT-BYT cũng đã hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện theo các tiêu chí chung gồm: sự an toàn, trình độ chuyên môn của nhân viên y tế, trang thiết bị và công nghệ, sự tiện nghi và thoải mái, cơ chế thu thập ý kiến phản hồi từ bệnh nhân, các chứng chỉ và chứng nhận chất lượng, kết quả điều trị...
Lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo: Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ được quy định tại Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT, bao gồm 11 tiêu chuẩn chính, từ mục tiêu và chuẩn đầu ra đến cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng.
Đối với giáo dục phổ thông, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, dựa trên 5 tiêu chuẩn đánh giá: tổ chức và quản lý nhà trường; cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh; cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục (Thông tư số 18/2018/TT-BGDĐT).
Lĩnh vực Khoa học và Công nghệ: Việc đánh giá hoạt động và chất lượng dịch vụ của tổ chức sự nghiệp công lập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ được quy định tại Thông tư số 18/2019/TT-BKHCN.
Lĩnh vực Tài chính: Có 2 DVSNC cơ bản, thiết yếu sử dụng NSNN thuộc lĩnh vực tài chính được xác định theo Quyết định số 970/QĐ-TTg ngày 13/9/2024 là: (1) Dịch vụ kiểm định, thử nghiệm chất lượng hàng dự trữ quốc gia; và (2) Dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị phục vụ nhập, xuất, bảo quản hàng dự trữ quốc gia. Quyết định này cũng giao Bộ Tài chính chịu trách nhiệm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng và cơ chế giám sát, đánh giá cho các dịch vụ này.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN
Việc xây dựng và áp dụng hiệu quả các tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng DVSNC chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố đan xen như:
(i). Yếu tố pháp lý: sự hoàn thiện, đồng bộ và rõ ràng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là nền tảng tiên quyết. Việc thiếu các quy định khung, hướng dẫn chi tiết hoặc sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản sẽ gây khó khăn cho quá trình xây dựng và triển khai.
(ii). Yếu tố tổ chức, quản lý: bao gồm cả năng lực hoạch định chính sách, năng lực tổ chức thực hiện và năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương.
(iii). Yếu tố nguồn lực: xây dựng và duy trì một hệ thống đánh giá chất lượng hiệu quả đòi hỏi sự đầu tư thỏa đáng về tài chính (cho các hoạt động khảo sát, thu thập dữ liệu, thuê chuyên gia, ứng dụng công nghệ), nhân lực (đội ngũ cán bộ có chuyên môn về quản lý chất lượng, kỹ năng phân tích, đánh giá) và công nghệ (hệ thống thông tin, phần mềm quản lý và phân tích dữ liệu).
(iv). Yếu tố nhận thức: nhận thức đúng đắn và đầy đủ tầm quan trọng cũng như lợi ích của quản lý chất lượng dịch vụ của các cấp lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống hành chính và các DVSNC là yếu tố thúc đẩy sự cam kết và quyết tâm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ. Bên cạnh đó, nhận thức và sự kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp về chất lượng dịch vụ công cũng là những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả phục vụ của DVSNC.
(v). Bối cảnh tự chủ tài chính: cơ chế tự chủ tài chính của DVSNC mang đến cả cơ hội và thách thức. Một mặt, tự chủ tài chính có thể giúp các đơn vị linh hoạt hơn trong việc huy động và sử dụng nguồn lực để đầu tư cải thiện cơ sở vật chất, nâng cao trình độ nhân viên, từ đó cải thiện chất lượng dịch vụ.
Đánh giá hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công hiện nay
Đánh giá chung
Các văn bản pháp luật khung đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho việc quản lý và cung cấp, đảm bảo chất lượng DVSNC. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cũng như cơ chế giám sát, đánh giá thường được phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương tự quy định cho lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình. Hiện vẫn còn thiếu một văn bản hướng dẫn chung, mang tính quốc gia về các nguyên tắc, cấu trúc hay nội dung cốt lõi mà các bộ tiêu chí chuyên ngành hoặc địa phương cần tuân theo khi xây dựng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng không đồng đều, thiếu nhất quán trong việc ban hành và áp dụng các tiêu chí đánh giá chất lượng giữa các ngành và các địa phương khác nhau trên cả nước.
Việc xây dựng một khung chung, sau đó chuyên biệt hóa cho từng lĩnh vực là một thách thức về mặt phương pháp luận, đòi hỏi phải xác định rõ đâu là những "mẫu số chung" và đâu là những "biến số đặc thù" cho từng ngành, lĩnh vực.
Những đánh giá từ phía người dân và xã hội cũng cho thấy chất lượng một số DVSNC cơ bản vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng về chất lượng. Kiểm toán nhà nước cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gián tiếp phản ánh những vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, việc đánh giá cụ thể thông qua các tiêu chí chưa được lượng hóa một cách đầy đủ.
Nhìn chung, có một khoảng cách nhất định giữa các yêu cầu pháp lý về đảm bảo chất lượng DVSNC và việc triển khai trên thực tế. Sự thiếu vắng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chi tiết về tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng đang là một rào cản lớn.
Kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế
Hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng DVSNC đã đạt được những kết quả sau:
Một là, một số bộ, ngành đã chủ động ban hành các văn bản quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng cho các DVSNC cụ thể thuộc lĩnh vực quản lý. Điều này thể hiện nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng trong quản lý chất lượng dịch vụ do các DVSNC cung cấp.
Hai là, nhận thức của các cấp quản lý, các đơn vị sự nghiệp công và cả người dân về vai trò và yêu cầu đối với chất lượng DVSNC đã có những chuyển biến tích cực, chú trọng hơn đến xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.
Ba là, triển khai cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP bước đầu tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công chủ động hơn trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ.
Cùng với đó cũng tồn tại nhiều hạn chế cần phải tháo gỡ, cụ thể:
Thứ nhất, thiếu khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ. Như đã đề cập, đến nay vẫn chưa có một hệ thống cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất xuyên suốt ở tầm quốc gia cho hoạt động kiểm định, đánh giá chất lượng đơn vị sự nghiệp công hay việc xếp hạng các DVSNC.
Thứ hai, việc xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách chưa được chú trọng đúng mức. Công tác xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách liên quan đến đơn vị sự nghiệp công nói chung và các quy định về chất lượng dịch vụ nói riêng còn thiếu sự đầu tư, dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.
Thứ ba, tiêu chí, tiêu chuẩn còn chung chung, khó đo lường. Ở một số lĩnh vực, các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng được ban hành còn mang tính định tính cao, khó lượng hóa và đo lường một cách khách quan.
Thứ tư, nguồn lực cho công tác đánh giá chất lượng còn hạn chế, eo hẹp. Việc xây dựng, triển khai hệ thống đánh giá chất lượng đòi hỏi nguồn lực đáng kể về tài chính, nhân lực có chuyên môn và công nghệ hỗ trợ.
Thứ năm, áp dụng kết quả đánh giá vào cải thiện chất lượng chưa rõ ràng. Kết quả đánh giá chất lượng dịch vụ chưa được sử dụng một cách hiệu quả để làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định quản lý, cải tiến quy trình, hay phân bổ nguồn lực nhằm nâng cao thực chất chất lượng dịch vụ.
KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG, ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
Để nâng cao hiệu quả xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng DVSNC sử dụng vốn NSNN, cần thống nhất, xuyên suốt hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, cụ thể:
Đối với Chính phủ và các bộ, ngành liên quan
Một là, nghiên cứu, ban hành Khung tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng DVSNC sử dụng NSNN cấp quốc gia. Dựa trên các đề xuất khoa học và thực tiễn của các bộ, ngành, địa phương và để đảm bảo tính định hướng, Chính phủ cần giao một cơ quan chủ trì (ví dụ: Bộ Nội vụ hoặc Bộ Tài chính) phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ ban hành một văn bản quy phạm pháp luật. Phạm vi văn bản này nên ở tầm Nghị định của Chính phủ hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Khung tiêu chuẩn, tiêu chí chung, đảm bảo tính thống nhất với khung chung, đồng thời phản ánh đầy đủ đặc thù của từng ngành, lĩnh vực và địa phương.
Hai là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng DVSNC. Cần sớm ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quy trình, phương pháp, thẩm quyền và trách nhiệm trong việc giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng DVSNC.
Ba là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, chuyển đổi số trong quản lý và đánh giá chất lượng DVSNC. Đẩy mạnh việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành về chất lượng dịch vụ; phát triển các nền tảng, công cụ trực tuyến để thu thập phản hồi của người dân, doanh nghiệp; ứng dụng công nghệ thông tin trong việc theo dõi, giám sát và phân tích dữ liệu chất lượng.
Bốn là, bố trí đủ nguồn lực cho công tác xây dựng, áp dụng và đánh giá tiêu chuẩn chất lượng. Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần ưu tiên bố trí đủ nguồn lực về tài chính, nhân lực có chuyên môn và hạ tầng kỹ thuật cho việc xây dựng, triển khai, duy trì và cải tiến hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí chất lượng DVSNC. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá thúc đẩy chất lượng DVSNC.
Đối với các đơn vị dịch vụ sự nghiệp công
Thứ nhất, chủ động xây dựng và áp dụng các biện pháp cải tiến chất lượng. Căn cứ vào các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí được ban hành, các đơn vị sự nghiệp công cần chủ động xây dựng kế hoạch hành động, triển khai các biện pháp cụ thể để không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ do mình cung cấp.
Thứ hai, tăng cường năng lực quản trị và đào tạo nhân lực. Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị theo hướng hiện đại, hiệu quả.
Thứ ba, công khai, minh bạch thông tin về chất lượng dịch vụ. Thực hiện công khai các tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ, kết quả tự đánh giá hoặc đánh giá từ bên ngoài (ở mức độ phù hợp) để người dân, doanh nghiệp và xã hội có thể giám sát. Thiết lập các kênh thu nhận và xử lý phản hồi, góp ý của người sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp và kiến nghị nêu trên kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến thực chất trong công tác quản lý và nâng cao chất lượng DVSNC sử dụng NSNN tại nước ta hiện nay, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự mong đợi của người dân, doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2024). Thông tư số 01/2024/TT-BKHCN ngày 18/1/2024 Quy định kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016). Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Thông tư 18/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 ban hành quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông nhiều cấp học.
4. Bộ Nội vụ (2023). Thông tư 07/2023/TT-BNV ngày 31/5/2023 quy định tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng và nghiệm thu dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực nội vụ về bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
5. Bộ Nội vụ (2023). Thông tư 08/2023/TT-BNV ngày 31/5/2023 quy định tiêu chí tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công lĩnh vực Lưu trữ.
6. Bộ Y tế (2013). Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện.
7. Chính phủ (2019). Nghị định 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 Quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
8. Chính phủ (2021). Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 Quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
9. Chính phủ (2025). Nghị định số 111/2025/NĐ-CP ngày 22/5/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
10. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định 970/QĐ-TTg ngày 13/9/2024 ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực tài chính.
Ngày nhận bài: 6/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/9/2025; Ngày duyệt xuất bản: 21/9/2025 |