Phát triển bền vững nền kinh tế tư nhân tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Kinh tế tư nhân Việt Nam đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Trần Hoàng Trúc Linh

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Kinh tế tư nhân Việt Nam đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý, khả năng tiếp cận tiền tệ và năng lực quản trị tiếp tục đặt ra những rào cản đáng kể đối với tăng trưởng dài hạn của khu vực tư nhân. Bài viết này xem xét tình hình phát triển bền vững khu vực tư nhân hiện tại ở Việt Nam, đưa ra các biện pháp khắc phục để hỗ trợ tăng trưởng khu vực tư nhân dài hạn. Các phát hiện chỉ ra rằng cải thiện thể chế, tăng cường năng lực quản trị, khuyến khích đổi mới sáng tạo và tăng cường kết nối thị trường là cần thiết để các công ty khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và đóng góp vào tiến trình kinh tế dài hạn.

Từ khóa: Việt Nam, phát triển bền vững, kinh tế tư nhân

Abstract

Vietnam's private sector contributes significantly to economic development, employment creation, and innovation promotion. However, the legal framework, access to money, and governance ability continue to pose significant barriers to the private sector's long-term growth. This article examines the present state of private sector development in Vietnam, evaluates variables influencing sustainability, and provides remedies to support long-term private sector growth. The findings indicate that improving institutions, increasing governance capacity, encouraging innovation, and strengthening market connections are required for private firms to thrive and contribute to long-term economic progress.

Keywords: Vietnam, sustainability, private sector

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) bao gồm tất cả các loại hình sản xuất và hoạt động thương mại dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (UNCTAD, 2020). Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2021), khu vực tư nhân tạo ra hơn 90% việc làm, 75% tổng vốn đầu tư và 70% GDP ở các nước đang phát triển, cho thấy vai trò quan trọng của khu vực này trong nền kinh tế.

Liên hợp quốc (1987) định nghĩa phát triển bền vững (PTBV) là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. PTBV có ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.

Chức năng của KTTN trong việc PTBV được thể hiện ở ba lĩnh vực. Thứ nhất, các doanh nghiệp tư nhân tạo ra sản xuất, việc làm và doanh thu (World Bank, 2021). Thứ hai, về mặt xã hội, các doanh nghiệp tư nhân khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới và phúc lợi (UNDP, 2022). Thứ ba, về mặt môi trường, các doanh nghiệp tư nhân có thể sử dụng công nghệ sạch, sản xuất xanh và phấn đấu đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Porter và Kramer, 2011). Porter và Kramer (2011) đã thiết lập khái niệm "giá trị chung", trong đó các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận đồng thời đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, giúp hiểu được vai trò của doanh nghiệp trong quá trình phát triển bền vững.

Như vậy, khu vực KTTN đóng vai trò chính yếu trong tiến trình PTBV, đòi hói việc thiết lập khung chính sách hợp tác công - tư, khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào các mục tiêu bền vững quốc gia. Bối cảnh hội nhập sâu rộng và các yêu cầu phát triển bền vững đặt ra bài toán cấp thiết: Làm thế nào để KTTN phát triển ổn định, đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế hiện đại, xanh, số hóa? Bài viết tập trung nhận diện các yếu tố tác động, phân tích thực trạng, đề xuất khuyến nghị chính sách thúc đẩy phát triển bền vững khu vực KTTN ở Việt Nam.

KHÁI QUÁT CÁC CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KTTN

Trong những năm qua, Ðảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển KTTN, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. KTTN được Đảng ta nhìn nhận là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngay từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta chính thức thừa nhận KTTN là một thành phần quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 18/3/2002, “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN” với nhiều giải pháp quan trọng khuyến khích phát triển KTTN. Đại hội lần thứ X, Đảng ta chính thức khẳng định KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục đánh giá KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Vì vậy, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2017, “Về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, với các mục tiêu và giải pháp cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ phát triển hơn nữa khu vực KTTN. Đại hội lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta đã xác định rõ ràng và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò quan trọng của KTTN. Trong bối cảnh mới, để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 10/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới với nhiều giải pháp cụ thể, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Tiếp tục chủ trương phát triển KTTN, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển KTTN. Đây thực sự là bước ngoặt lịch sử cho KTTN ở Việt Nam với nhiều quan điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược về KTTN. Theo đó, KTTN được xác định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế”.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KTTN Ở VIỆT NAM

Báo cáo thường niên Doanh nghiệp Việt Nam 2023–2024 của VCCI và số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, khu vực KTTN vẫn rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Đến cuối năm 2024, cả nước có khoảng 940.000 doanh nghiệp tư nhân, tăng 2% so với năm 2023. Phần lớn các doanh nghiệp này là doanh nghiệp nhỏ và vừa phần lớn có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI], 2024; Tổng cục Thống kê, 2024). Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp khởi nghiệp trở lại đạt 233.400, mức cao nhất trong 10 năm qua. Điều này cho thấy khu vực này năng động và triển vọng như thế nào (VCCI, 2024; Tổng cục Thống kê, 2024). Tuy nhiên, trong cùng thời gian đó, khoảng 198.000 doanh nghiệp đã rời khỏi thị trường, chủ yếu là các doanh nghiệp siêu nhỏ và siêu lớn, điều này cho thấy họ không thực sự bền vững (VCCI, 2024). Nếu chỉ tính các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp, KTTN chiếm khoảng 20% ​​GDP. Nhưng nếu tính cả các hộ kinh doanh cá thể, tỷ lệ đóng góp được cho là 50-51% GDP và kinh tế tư nhân sử dụng tới 82% tổng lực lượng lao động xã hội (VCCI, 2024; Tổng cục Thống kê, 2024).

Một số doanh nghiệp lớn như Vingroup, Thaco, Masan, Vinamilk và FPT vẫn tự nhận mình là tốt nhất. Ví dụ, Vingroup đã kiếm được 192.159 tỷ đồng vào năm 2024, tăng 19% so với năm trước. Doanh nghiệp FPT cũng có mức tăng trưởng thu nhập 19,4%, đạt khoảng 63.000 tỷ đồng. Những doanh nghiệp này không chỉ giúp ích rất nhiều cho nền kinh tế địa phương mà còn đang dần mở rộng sang các quốc gia khác. Họ đang đầu tư rất nhiều tiền vào những ý tưởng mới và tăng trưởng dài hạn.

VCCI (2024) đã tiến hành một cuộc thăm dò cho thấy một số lượng lớn các công ty tư nhân vẫn gặp phải những thách thức đáng kể trong việc đảm bảo vốn (61,3%), thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu (VCCI, 2024). Cơ cấu doanh nghiệp vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (khoảng 98%), và vẫn còn rất ít doanh nghiệp vừa và lớn. Điều này có nghĩa là chúng ta cần tiếp tục cải thiện các thể chế và tìm cách giúp nền kinh tế tư nhân phát triển theo hướng có lợi cho môi trường.

Bảng 1: Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam (2018–2024)

Chỉ tiêu

2018

2020

2022

2023

2024

Tỷ trọng GDP (%)

41,5

41,9

42,5

43,0

43,1

Số doanh nghiệp tư nhân (nghìn)

640

760

850

900

940

Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ & vừa (%)

96,0

96,1

96,2

97,5

98,0

Số doanh nghiệp thành lập mới & quay lại (nghìn)

131

166

208

215

233,4

Số doanh nghiệp rút lui (nghìn)

97

102

143

172

198

Tỷ lệ lao động khu vực tư nhân (%)

83,0

84,2

85,0

85,3

82,0

Đóng góp GDP (bao gồm hộ kinh doanh) (%)

49

50

50,5

51

51

Nguồn: Tổng cục Thống kê (GSO)

Bảng 1 cho thấy khu vực tư nhân Việt Nam đang gặp phải hai vấn đề chính ngoài xu hướng tăng trưởng thu nhập lớn đó là chất lượng và phạm vi tăng trưởng. Hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ không có nhiều chỗ cho những ý tưởng, kết nối hoặc phản hồi mới. Các doanh nghiệp lớn có thể phá sản nhưng không xảy ra thường xuyên. Vấn đề tiếp theo về phát triển bền vững: Số lượng doanh nghiệp rời đi đang tăng nhanh và tốc độ "vào-ra" cao. Điều này cho thấy thị trường cạnh tranh như thế nào, khiến các doanh nghiệp phải chịu sự thay đổi của thị trường và biến động giá. Hơn nữa, phát triển bền vững được đề cập dựa trên ba trụ cột cơ bản: kinh tế, xã hội và môi trường (WCED, 1987):

Về mặt kinh tế, khu vực KTTN đã mở rộng quy mô và đóng góp ngày càng cao vào GDP quốc gia, từ 41,5% (năm 2018) lên 43,1% (năm 2024), và sử dụng hơn 82% lực lượng lao động xã hội (Tổng cục Thống kê, 2024). Một số tập đoàn lớn như Vingroup, FPT, Vinamilk đã vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp vẫn còn nhỏ và siêu nhỏ, chưa tích lũy được vốn, năng suất lao động thấp và khả năng cạnh tranh quốc tế kém.

Về mặt xã hội, khu vực KTTN tạo ra phần lớn việc làm cho đất nước, đóng góp đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, chất lượng việc làm trong khu vực này còn thấp, chưa ổn định và chưa được đảm bảo đầy đủ về mặt phúc lợi, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Năng lực đào tạo, duy trì và phát triển kỹ năng cho người lao động cũng còn yếu.

Về môi trường, khu vực tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự tham gia vào chuyển đổi xanh. Việc áp dụng sản xuất sạch hơn, các tiêu chuẩn môi trường toàn cầu, hay tham gia vào nền kinh tế tuần hoàn vẫn còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở một số ít doanh nghiệp lớn. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ chưa có đủ động lực, vốn đầu tư hoặc nhận thức để triển khai các hoạt động sản xuất bền vững.

Nhìn chung, nền kinh tế tư nhân Việt Nam đã có những bước tiến rõ nét trên trụ cột kinh tế, mang lại lợi ích cho việc làm và thu nhập trên trụ cột xã hội, nhưng vẫn còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng trên cả ba trụ cột này nhằm hướng tới phát triển bền vững thực sự trong tương lai.

Để đạt được tính bền vững, điều cần thiết là không chỉ tập trung vào số lượng mà còn phải nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh, đổi mới, chuyển đổi số lượng và phát triển quy mô trong các doanh nghiệp tư nhân. Chúng ta cần tiếp tục cải thiện các thể chế, tạo điều kiện dễ dàng hơn để có được nguồn tài chính, đất đai và đào tạo cho người lao động, đồng thời kết nối các doanh nghiệp trong nước với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các doanh nghiệp quốc tế.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết luận

Trong những năm gần đây, khu vực KTTN của Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể, thể hiện qua sự mở rộng nhanh chóng về cả số lượng doanh nghiệp và tỷ trọng đóng góp của họ vào GDP quốc gia. KTTN đã phát triển thành một nguồn việc làm quan trọng, với sự hiện diện mạnh mẽ trong một số lĩnh vực kinh tế quan trọng như bán lẻ, sản xuất, công nghệ và hậu cần. Đáng chú ý, sự ra đời và tăng trưởng vượt bậc của một số công ty tư nhân lớn, bao gồm Vingroup, Masan, Vinamilk, FPT, Thaco và các công ty khác, đã giúp củng cố vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam trên cả thị trường trong nước và quốc tế.

Mặc dù có những tiến bộ, KTTN vẫn có một số hạn chế cơ bản. Phần lớn các doanh nghiệp KTTN hiện nay là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (hơn 95%), với năng suất lao động kém so với khu vực FDI và các doanh nghiệp nhà nước. Việc tiếp cận tài chính và đất đai còn nhiều thách thức, trong khi đầu tư vào đổi mới kỹ thuật và triển khai các phương pháp quản lý mới vẫn còn rất ít. Đặc biệt, khả năng chống chịu của các doanh nghiệp KTTN trước những cú sốc lớn như dịch COVID-19 còn kém, khiến nhiều doanh nghiệp phải nhanh chóng rời khỏi thị trường.

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế này là môi trường thể chế và chính sách hỗ trợ không ổn định, dẫn đến tình trạng chồng chéo và không nhất quán trong quá trình thực hiện. Thị trường vốn chưa phát triển đồng bộ, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vẫn đang trong giai đoạn đầu và chưa thu hút được sự quan tâm rộng rãi. Đồng thời, năng lực quản trị và khả năng kết nối chuỗi giá trị của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn hạn chế, hạn chế khả năng cạnh tranh và tăng trưởng dài hạn.

Khuyến nghị

Để khuyến khích khu vực KTTN tại Việt Nam phát triển bền vững trong bối cảnh mới, điều quan trọng là phải tập trung đưa vào hành động các nhóm giải pháp cơ bản và dài hạn. Trước hết, điều quan trọng nhất là cải thiện thể chế và giảm bớt các trở ngại về hành chính bằng cách đơn giản hóa các quy trình, tạo điều kiện cởi mở hơn và đảm bảo mọi lĩnh vực kinh tế đều được đối xử bình đẳng. Ngoài ra, các doanh nghiệp KTTN cần có khả năng tiếp cận tài chính, đất đai và công nghệ mới. Điều này có thể thực hiện được bằng cách tạo ra một thị trường vốn đa dạng, mở ra nhiều lựa chọn tài chính hơn và thúc đẩy mạnh mẽ các dự án đổi mới sáng tạo và sử dụng chuyển đổi số trong kinh doanh và sản xuất.

Đồng thời, các doanh nghiệp KTTN có thể trở nên cạnh tranh hơn bằng cách nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, hỗ trợ kỹ thuật tốt hơn và kết nối tốt hơn giữa các doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu. Ngoài ra, việc kết nối thị trường và chuỗi giá trị chặt chẽ hơn sẽ cho phép các doanh nghiệp tư nhân hợp tác với các công ty lớn và các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), từ đó hỗ trợ thị trường trong nước phát triển và xuất khẩu sang các quốc gia khác.

Cuối cùng, chúng ta nên tập trung vào việc thúc đẩy các doanh nghiệp xanh và phát triển bền vững bằng cách giúp các doanh nghiệp tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, sử dụng các phương pháp sản xuất sạch và tuần hoàn, và hướng tới một mô hình phát triển cân bằng giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là những bộ phận quan trọng của nền kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ giúp nó phát triển theo hướng có lợi cho đất nước trong dài hạn.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.

2. Đảng cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. FPT. (2024). Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2024.

4. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2024). Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2023–2024.

5. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2024). Khảo sát doanh nghiệp tư nhân 2024.

6. Ngân hàng Thế giới (2023). Vietnam Development Report.

7. Nguyễn Thị Thu Trang (2022). Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 297, tr.21-28.

8. Nguyễn Hồng Sơn, Phạm Thị Hồng Điệp (2017). Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam:

Quan điểm của Đảng và một số vấn đề đặt ra, truy cập từ: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/45322/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-o-viet-nam--quan-diem-cua-dang-va-mot-so-van-de-dat-ra.aspx#; truy cập ngày 16/4/2025.

9. Porter, M.E., & Kramer, M.R. (2011). Creating Shared Value. Harvard Business Review, 89(1/2), 62–77.

10. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê Việt Nam 2023. NxbThống kê, Hà Nội.

11. Tổng cục Thống kê (2024). Báo cáo Kết quả tổng điều tra kinh tế 2023.

12. UNCTAD. (2020). World Investment Report: International Production Beyond the Pandemic. Geneva: United Nations.

12. UNDP. (2022). Private Sector Engagement for Sustainable Development. UNDP Policy Brief.

13. Vingroup. (2024). Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2024.

14. World Bank. (2021). World Development Report 2021: Data for Better Lives. Washington, DC: The World Bank.

15. WCED. (1987). Our Common Future. Oxford University Press.

Ngày nhận bài: 20/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 28/7/2025; Ngày duyệt đăng: 18/8/2025