Những rào cản trong kế hoạch tái vũ trang của châu Âu

24/03/2025 12:17

() - Kế hoạch tái vũ trang trị giá 800 tỷ euro của châu Âu bắt đầu được triển khai hơn 3 năm sau khi nổ ra cuộc chiến ở Ukraine, và chỉ khi Mỹ giảm cam kết với an ninh châu Âu.

Những rào cản trong kế hoạch tái vũ trang của châu Âu - 1

Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christin Lagarde (trái) và Chủ tịch Hội đồng châu Âu Antonio Costa tham dự một phiên họp tại Brussels ngày 20/3 (Ảnh: Reuters).

Ngày 20/3, Liên minh châu Âu (EU) đã họp thượng đỉnh về quốc phòng. Trước đó một ngày, Ủy ban châu Âu đã công bố Sách Trắng quốc phòng định hướng cho kế hoạch tái vũ trang từ nay đến năm 2030, để đối phó với "mối đe dọa quân sự của Nga và nguy cơ Mỹ rút khỏi NATO", theo thông tin từ thông báo của Ủy ban châu Âu.

Nội dung Sách Trắng quốc phòng

Theo lời bà Kaja Kalas, người phụ trách Ngoại giao của EU, Sách Trắng xác nhận với các nước châu Âu sự chấm dứt bảo đảm an ninh của Mỹ - điều đã được lên kế hoạch, "là một sự thay đổi trật tự thế giới được thiết lập từ năm 1945".

Sách Trắng đề xuất nhiều hướng đi, với mục tiêu bảo đảm EU đến năm 2030 sẵn sàng bù đắp cho năng lực quốc phòng của từng nước từ hệ thống phòng không và chống tên lửa, hệ thống pháo binh và đạn dược cho đến UAV và chiến tranh điện tử. Sách Trắng cũng đã liệt kê mọi lĩnh vực mà EU phải tự chủ để thay thế các năng lực mà một số nước hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ, ví dụ thiết bị phóng cho tàu sân bay, vận tải chiến thuật hàng không và tiếp nhiên liệu trên không.

Theo Sách Trắng, các nhà lãnh đạo EU cũng muốn tạo ra một thị trường duy nhất về quốc phòng để ngành công nghiệp quốc phòng của mình có thể đáp ứng mọi đơn đặt hàng; đề nghị 27 nước thành viên "nâng mức chi tiêu quốc phòng để đến năm 2030 đạt 800 tỷ euro, thông qua các khoản vay trực tiếp và với sự linh hoạt về ngân sách để các khoản chi tiêu quân sự này không bị ràng buộc bởi các quy định giới hạn thâm hụt ngân sách".

Cuộc khủng hoảng trong quan hệ với Mỹ mà châu Âu đang đối mặt có thể xem là toàn diện và nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh khi Tổng thống Trump nhiều lần nêu ra câu hỏi "liệu nước Mỹ có nên tiếp tục là trung tâm trong NATO hay không". Kế hoạch dành 800 tỷ euro để tái vũ trang như trên là bước đi táo bạo, nhưng liệu điều đó có khả thi và tự nó có đủ để giúp châu Âu xây dựng một hệ thống phòng thủ độc lập và hiệu quả hay không vẫn còn là câu hỏi lớn.

Vấn đề trước tiên: "Tiền đâu?"

Theo công bố của Hội đồng châu Âu, trong năm 2024 vừa qua, các nước trong Liên minh châu Âu EU đã chi 1,9% GDP cho quốc phòng, tương đương với 326 tỷ euro. Theo các nhà phân tích quân sự, châu Âu sẽ phải tăng mức chi tiêu cho quốc phòng lên 460 tỷ euro mỗi năm để có thể tự gánh vác được trách nhiệm tự chủ an ninh của mình.

Tuy nhiên, theo báo Financial Times, để có được số tiền lớn như trên, các nước EU sẽ phải cắt giảm các chi phí dành cho phúc lợi xã hội, lương hưu và chăm sóc y tế, điều không dễ thực hiện trong bối cảnh dân số ngày càng trở nên già đi, khả năng đóng góp cho ngân sách sụt giảm trong khi chi phí cho an sinh xã hội không ngừng tăng lên.

Chính vì thế, nhiều nhà phân tích quốc tế cho rằng đây là điều rất khó thực hiện bởi sẽ gây phản ứng rộng lớn và bất ổn khó lường trong xã hội vốn đã chịu nhiều khó khăn về đời sống kể từ khi xảy ra cuộc chiến ở Ukraine. Nhưng ngay cả khi bằng những cách bất thường như sửa đổi hiến pháp để Đức có thể vay hàng trăm tỷ cho tăng cường quốc phòng mà Thủ tướng đắc cử Friedrich Merz đang vận động, việc xây dựng khả năng quân sự độc lập cho châu Âu cũng không dễ đạt được bởi việc này không đơn thuần chỉ là vấn đề kinh phí.

Những bất cập của nền công nghiệp quốc phòng EU

Tái vũ trang châu Âu thực ra là một bài toán phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau như công nghiệp, chiến lược quốc phòng, chính trị và thậm chí cả văn hóa. Các trở ngại mà châu Âu đang gặp phải thực ra là kết quả của hàng thập niên lệ thuộc vào "chiếc ô an ninh" của Mỹ, sự thiếu hợp tác liên châu Âu trong lĩnh vực quốc phòng và những quyền lợi quốc gia đôi khi đối lập với lợi ích chung của cả khối.

Điểm đáng chú ý nhất trong nỗ lực tái vũ trang của châu Âu là những mâu thuẫn cơ bản trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng. Theo báo cáo gần đây nhất của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) ngày 10/03, các nước châu Âu trong NATO phụ thuộc đến 64% vào nguồn cung cấp vũ khí của Mỹ, 10% vào Hàn Quốc và hơn 2% vào Israel. Trong giai đoạn 2020-2024, nhập khẩu vũ khí của châu Âu đã tăng tới 155% so với giai đoạn 5 năm trước đó, với phần lớn là từ Mỹ.

Điều này là không bình thường khi biết rằng châu Âu sở hữu đến 27/100 tập đoàn quốc phòng lớn nhất thế giới, bao gồm các tên tuổi nổi tiếng như BAE Systems, Airbus Defence, Leonardo, Thales, Rheinmetall và Dassault... Trên lý thuyết, công nghiệp quốc phòng châu Âu có khả năng đáp ứng hầu hết các nhu cầu quân sự, từ bộ binh đến không quân và hải quân, từ tên lửa đến ra-đa, từ tàu ngầm đến thiết giáp, máy bay tàng hình và trực thăng...

Mảng sản xuất các tiêm kích là ví dụ điển hình cho nghịch lý của công nghiệp quốc phòng châu Âu. Dù có những máy bay chiến đấu tiên tiến như Rafale của Pháp, Gripen của Thụy Điển và thậm chí là Eurofighter - một dự án hợp tác giữa bốn nước châu Âu là Anh, Đức, Italy và Tây Ban Nha - nhiều nước thành viên EU vẫn lựa chọn mua F-35 của Mỹ. Đức, Italy cũng như Ba Lan, Romania và các nước vùng Baltic dường như có xu hướng ưa chuộng công nghệ quốc phòng của Mỹ hơn.

Theo ông Guillaume Faury, Tổng Giám đốc tập đoàn Airbus, hiện tượng "chuộng hàng Mỹ" này còn là vì suy nghĩ coi đó là "lá bùa hộ mệnh" để được Washington bảo đảm an ninh. Nhưng như ông Faury đã nhận xét: "Đến khi Mỹ quay lưng lại với châu Âu như qua những diễn tiến gần đây, thì thỏa thuận đổi vũ khí lấy an ninh đó tan vỡ".

Sự phân mảnh trong chiến lược phát triển

Một trở ngại quan trọng khác đối với việc tự chủ quốc phòng của châu Âu là sự thiếu vắng những dự án hợp tác quy mô lớn tương tự như Airbus trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Cũng theo ông Guillaume Faury, trong nhiều năm qua, châu Âu đã chậm trễ trong việc đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng; các khoản đầu tư lại "vụn vặt" tùy theo quyết định của mỗi thành viên, nên đã không đủ tầm cỡ. Thực tế là các nước vẫn có xu hướng phát triển hệ thống quốc phòng riêng của mình, dẫn đến việc trùng lặp, lãng phí nguồn lực và mất đi lợi thế về quy mô mà một chiến lược phối hợp toàn EU có thể mang lại.

Chính ông Jean Pierre Maulny, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế và chiến lược IRIS của Pháp, đã chỉ ra rằng: "Trong mọi dự án hợp tác, luôn có nguy cơ cạnh tranh giữa các tập đoàn châu Âu trong lĩnh vực quốc phòng, có một sự tranh giành trong việc chia sẻ các công đoạn sản xuất, có một sự ngờ vực về mặt công nghệ. Đặc biệt là trong ngành chế tạo vũ khí và thiết bị quân sự, một dự án hợp tác chỉ thành công nếu như hai tập đoàn thực sự cộng tác với nhau, để tuy hai mà cũng như một".

Trong bối cảnh châu Âu còn đang chật vật với các vấn đề nội bộ, một đối thủ cạnh tranh mới đã xuất hiện trên thị trường vũ khí toàn cầu là Hàn Quốc mà trường hợp của Ba Lan là một ví dụ điển hình. Quốc gia này, hiện là thành viên duy nhất của NATO dành gần 5% GDP cho quốc phòng, nay đã chuyển hướng đáng kể sang mua thiết bị quân sự từ Seoul.

Những thách thức không dễ vượt qua

Một trở ngại quan trọng khác đối với việc tái vũ trang châu Âu là khoảng cách công nghệ và năng lực sản xuất so với Mỹ và các đối thủ khác. Thực tế là châu Âu đã mất đi một số năng lực kỹ thuật quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng sau nhiều thập kỷ phụ thuộc vào Mỹ. Việc lấy lại những năng lực này không chỉ đơn giản là vấn đề đầu tư tiền bạc, mà còn là một quá trình xây dựng lại kiến thức, kỹ năng và cơ sở hạ tầng - những điều không thể thực hiện trong một sớm một chiều.

Ông Christopher Dembick thuộc Quỹ đầu tư Pictet Asset Management nhận xét: "Trước mắt, EU dù có thể huy động được hàng trăm tỷ euro vốn để tăng chi tiêu quân sự đã là điều tốt, nhưng bên cạnh đó còn phải đầu tư vào các kỹ năng chế tạo một số công cụ mũi nhọn, và nhất là đuổi kịp Mỹ về công nghệ đòi hỏi thời gian cần thiết dài hơn là ngưỡng 4 đến 5 năm như thường được nói đến".

Không chỉ vậy, ông Guillaume Faury từ Airbus còn chỉ ra: "Vấn đề lớn nhất hiện nay xoay quanh câu hỏi: châu Âu có nên tách rời khỏi công nghệ của Mỹ hay không? Đối với một số công nghệ nhạy cảm, điểm này liên quan trực tiếp đến mức độ tự chủ của toàn khối, đến chủ quyền an ninh của châu Âu. Đây là một đề tài hết sức nhạy cảm".

Vấn đề tách rời khỏi công nghệ Mỹ ở mức độ nào là một câu hỏi chiến lược quan trọng mà châu Âu phải đối mặt. Tiếp tục phụ thuộc vào công nghệ Mỹ có thể duy trì sự tương thích với NATO và lợi dụng được kinh nghiệm và bí quyết của Mỹ, nhưng điều đó sẽ tiếp tục làm giảm quyền tự chủ chiến lược của châu Âu và có thể trở thành điểm yếu trong trường hợp quan hệ xuyên Đại Tây Dương tiếp tục xấu đi.

Trên tất cả, rào cản lớn nhất đối với sự thành công của kế hoạch tái vũ trang châu Âu có lẽ chính là bản chất chính trị quyết định trên cơ sở đồng thuận của EU. Với 27 quốc gia thành viên có lịch sử, văn hóa và lợi ích quốc gia khác nhau, việc đạt được sự đồng thuận về các vấn đề quốc phòng luôn là một thách thức và mất nhiều thời gian. Hơn nữa, việc thiếu một cơ quan quyết định tập trung về quốc phòng châu Âu cũng là trở ngại lớn. Mặc dù EU đã thành lập Cơ quan Phòng thủ châu Âu (EDA) và đang thúc đẩy Hợp tác Có cấu trúc Thường xuyên (PESCO), nhưng những sáng kiến này vẫn chưa thay thế được việc ra quyết định quốc phòng ở cấp quốc gia.

Một tương lai không chắc chắn

Kế hoạch tái vũ trang trị giá 800 tỷ euro của châu Âu bắt đầu được triển khai hơn 3 năm sau khi nổ ra cuộc chiến ở Ukraine và chỉ khi Mỹ giảm cam kết với an ninh châu Âu. Điều này cho thấy EU đã mất rất nhiều thời gian để nhận ra tính cấp bách của vấn đề và hành động một cách quyết đoán. Dù đó là một bước quan trọng trong việc xây dựng khả năng quốc phòng độc lập của lục địa này nhưng mới chỉ là bước đầu trong hành trình dài và đầy thách thức.

Để thực sự đạt được tự chủ chiến lược, bên cạnh việc đảm bảo vững chắc một nguồn kinh phí đầy đủ, châu Âu cần vượt qua nhiều trở ngại từ sự nhất trí chung giữa các nước thành viên đến phân mảnh trong chiến lược quốc phòng, sự phụ thuộc vào công nghệ Mỹ, đến khoảng cách về năng lực sản xuất và công nghệ.

Trên tất cả, câu hỏi lớn nhất đặt ra là liệu châu Âu có đủ thời gian để xây dựng khả năng quốc phòng độc lập trước khi phải đối mặt với một thách thức an ninh lớn. Trước viễn cảnh Mỹ giảm cam kết với an ninh châu Âu và Nga ngày càng mạnh hơn về quốc phòng và quyết đoán, châu Âu đang thực sự trong một cuộc chạy đua với thời gian. Và như lịch sử đã nhiều lần chứng tỏ, trong các vấn đề an ninh quốc gia, việc chậm trễ thường rất dễ dẫn đến việc không đạt được những mục tiêu đề ra.

Bạn đang đọc bài viết "Những rào cản trong kế hoạch tái vũ trang của châu Âu" tại chuyên mục Thế giới. Tin bài cộng tác vui lòng gửi về email Banbientap@kinhtevadulich.vn hoặc liên hệ hotline 0917501400.