Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước

Trong 3 thập kỷ qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tăng tốc rõ rệt, với các hiệp định thương mại tự do (FTA) đóng vai trò trung tâm.

Lâm Thị Quỳnh Anh

Bộ Công Thương

Tóm tắt

Bài viết đánh giá kết quả thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trên các trụ cột: thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động, môi trường và phát triển bền vững; đồng thời chỉ ra các khoảng trống trong quản lý nhà nước. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm có thể khai thác tối đa cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chuyển hóa cam kết thành lợi ích thiết thực cho nền kinh tế.

Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do (FTA), hội nhập kinh tế quốc tế, quản lý nhà nước

Summary

The article evaluates the implementation results of new-generation free trade agreements across the pillars of goods trade, services, investment, labor, environment and sustainable development. It also identifies gaps in state management. Based on this, the article offers several recommendations to maximize opportunities from new-generation free trade agreements and transform commitments into practical benefits for the economy.

Keywords: Free Trade Agreements (FTA), international economic integration, state management

GIỚI THIỆU

Trong 3 thập kỷ qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tăng tốc rõ rệt, với các hiệp định thương mại tự do (FTA) đóng vai trò trung tâm. Tính đến năm 2025, Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán 19 FTA, bao gồm 3 FTA thế hệ mới mang tính bước ngoặt (NG-FTA), gồm: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Liên minh Châu Âu - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do Vương quốc Anh - Việt Nam (UKVFTA). Các hiệp định này không chỉ được đặc trưng bởi tự do hóa thuế quan rộng rãi, mà còn bởi các cam kết sâu rộng về đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn lao động, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng việc ký kết, thực thi các hiệp định này vẫn còn những thách thức đáng kể. Khung chính sách thực hiện NG-FTA thường bị phân mảnh, chồng chéo chiến lược và thiếu các mục tiêu đo lường được, dựa trên kết quả. Các cơ chế giám sát và đánh giá được áp dụng không nhất quán, và các cuộc tham vấn công - tư có cấu trúc trong giai đoạn thực hiện vẫn chưa được phát triển. Những khoảng trống này có thể hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc tối đa hóa lợi ích của NG-FTA và chuyển đổi các cam kết trong hiệp định thành các lợi ích kinh tế - xã hội cụ thể.

Nghiên cứu nhằm phân tích các kết quả thực hiện NG-FTA tại Việt Nam, tập trung vào thương mại, dịch vụ và đầu tư, lao động, môi trường và phát triển bền vững. Nghiên cứu cũng nêu bật những thách thức quan trọng trong quản lý nhà nước và đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện. Bằng cách cung cấp một đánh giá dựa trên bằng chứng, nghiên cứu này góp phần vào cuộc tranh luận đang diễn ra về cách Việt Nam có thể chuyển đổi các cam kết hiệp ước thành kết quả phát triển bền vững trong một nền kinh tế toàn cầu ngày càng cạnh tranh.

KẾT QUẢ THỰC THI CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TƯ DO THẾ HỆ MỚI

Về tăng trưởng xuất nhập khẩu

Đối với CPTPP

Sau khi đi vào thực thi, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước đối tác đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Kết quả 6 năm thực thi CPTPP cho thấy, xuất khẩu tăng 52% (từ 36,8 tỷ USD lên 55,8 tỷ USD); nhập khẩu tăng 23% (từ 37,7 tỷ USD lên 46,4 tỷ USD) (Hình 1). Các mặt hàng xuất khẩu sang các nước CPTPP tương đối đa dạng, từ hàng nông nghiệp, thủy sản, thủ công mỹ nghệ cho đến hàng dệt may, máy móc, thiết bị, linh kiện điện tử.

Hình 1: Trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP

Đơn vị: Tỷ USD

Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước

Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương

Đối với EVFTA

Trong năm đầu thực hiện Hiệp định (2021), kim ngạch thương mại hàng hóa 2 chiều giữa Việt Nam và EU đạt gần 57 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2020. Đến năm 2024, kim ngạch thương mại 2 chiều đạt 68,4 tỷ USD (trong đó xuất khẩu đạt 51,7 tỷ USD, nhập khẩu đạt 16,7 tỷ , đưa thặng dư thương mại tăng gần 50% so với năm trước đó (Bảng). Hiện EU là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam (sau Trung Quốc, mũ và Hàn Quốc); là thị trường xuất khẩu thứ ba (sau Mỹ, Trung Quốc) và thị trường nhập khẩu thứ năm (sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan - Trung Quốc).

Bảng: Thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU sau khi EVFTA có hiệu lực

Đơn vị: Tỷ USD

Giá trị

2020

2021

Tăng trưởng

2022

Tăng trưởng

2023

Tăng trưởng

2024

Tăng trưởng

Xuất khẩu

35,1

40,1

14,2%

46,7

16,5%

43,6

-6,7%

51,7

18,5%

Nhập khẩu

14,6

16,9

15,0%

15,4

-8,5%

14,9

-3,2%

16,7

12,0%

Tổng kim ngạch 2 chiều

49,7

57,0

14,4%

62,1

9,1%

58,5

-5,8%

68,4

16,9%

Cán cân

thương mại

20,5

23,2

13,5%

31,3

34,7%

28,7

-8,4%

41,6

44,9%

Nguồn: Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê - Bộ tài chính)

Đối với UKVFTA

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Anh tăng dần đều sau khi Hiệp định có hiệu lực. Tuy nhiên, tỷ trọng thị trường Vương quốc Anh trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa đáng kể, trong đó xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 1,9%, nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 0,2% (Hình 2).

Biểu đồ 2: Thương mại 2 chiều Việt Nam - Vương Quốc Anh

Đơn vị: Tỷ USD

Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Về mức độ tận dụng ưu đãi thuế quan

Đối với CPTPP, số liệu cho thấy tỷ lệ tận dụng thuế quan thấp trong giai đoạn đầu (1,67% năm 2019) song đã dần tăng lên, đạt 8,84 vào năm 2024. Khả năng tỷ lệ tận dụng CPTPP sẽ tiếp tục tăng khi các ưu đãi thuế CPTPP ngày càng sâu và doanh nghiệp điều chỉnh chuỗi cung ứng.

Đối với EVFTA, trong năm đầu khi Hiệp định có hiệu lực (2020) chỉ 14,8% xuất khẩu hưởng ưu đãi, nhưng đã tăng lên 35% trong các năm 2023, 2024. Tuy còn thấp tương đối nhưng có xu hướng đi lên nhờ doanh nghiệp dần nắm vững thủ tục và đáp ứng quy tắc xuất xứ tốt hơn.

Đối với UKVFTA, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan có sự tăng trưởng rõ rệt qua các năm, từ 17,2% năm 2012 lên 36,21% năm 2024. Nhiều mặt hàng chính tận dụng rất tốt quy tắc xuất xứ ưu đãi, ví dụ: thủy sản 82,9%, rau quả 72,6%, giày dép 99,5% kim ngạch xuất khẩu sang Anh hưởng ưu đãi UKVFTA. Điều này nhờ UKVFTA về cơ bản kế thừa EVFTA nhưng lại ít cạnh tranh hơn.

Về dịch vụ và đầu tư

Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm thực thi các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư trong khuôn khổ các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới. Để hiện thực hóa các nghĩa vụ trong các hiệp định này, Việt Nam đã triển khai sửa đổi, bổ sung một loạt đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đến hoạt động thương mại dịch vụ và đầu tư. Tiêu biểu là Luật Đầu tư năm 2020, trong đó lần đầu tiên Việt Nam áp dụng mô hình "danh mục mở" (negative list) cho lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Đây là một bước cải cách mang tính nền tảng để phù hợp với thông lệ quốc tế trong CPTPP và EVFTA.

Việc thực thi các cam kết về dịch vụ và đầu tư trong các FTA thế hệ mới đã đóng góp tích cực vào việc thu hút đầu tư từ các nước đối tác FTA. Ví dụ, đối với CPTPP, trong vòng 1 năm trước và sau khi Hiệp định có hiệu lực (năm 2018), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước thành viên CPTPP tăng mạnh để đón đầu những cam kết mở cửa thị trường trong CPTPP. Cụ thể, số lượng dự án FDI từ Nhật Bản tăng từ 397 dự án năm 2017 lên 440 dự án năm 2018 và 454 dự án năm 2019. Số lượng dự án FDI từ Singapore tăng từ 194 dự án năm 2017 lên 228 dự án năm 2018 và 304 dự án năm 2019.

Về lao động, môi trường và phát triển bền vững

Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc nội luật hóa và triển khai các cam kết về lao động theo CPTPP và EVFTA, đặc biệt trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các quy định về quyền lao động, công đoàn và bình đẳng trong lao động đã được phản ánh trong Bộ luật Lao động 2019 và các văn bản pháp lý liên quan, đảm bảo tương thích với 8 công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Luật Công đoàn sửa đổi năm 2013 và Bộ luật Lao động có hiệu lực từ năm 2021 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình cải cách thể chế lao động, thúc đẩy môi trường pháp lý minh bạch, công bằng và bền vững cho doanh nghiệp.

Nhằm đáp ứng cam kết về môi trường và phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới, Việt Nam đã có những hành động cụ thể như việc triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo và giảm phát thải carbon. Việt Nam cũng đã ban hành các chính sách chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) để từng bước tháo gỡ “thẻ vàng” của Liên minh châu Âu (EU) đối với thủy sản Việt Nam, đồng thời đáp ứng yêu cầu từ thị trường CPTPP như Nhật Bản, Canada, và Úc.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Từ khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới đến nay, công tác quản lý nhà nước đối với việc thực thi các FTA thế hệ mới đã đóng góp tích cực vào việc đảm bảo thực hiện nghiêm túc cam kết và tận dụng được các cam kết để mang lại lợi ích thiết thực cho kinh tế. Những chính sách được ban hành trong thời gian qua là tương đối đầy đủ, đồng bộ, bao gồm các chiến lược, kế hoạch, các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản chỉ đạo điều hành, tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động trong việc triển khai các FTA thế hệ mới từ Trung ương đến địa phương. Tuy vậy, quá trình quản lý nhà nước về thực thi các FTA nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng đang đứng trước một số vấn đề sau:

Một là, trong những năm qua, mặc dù các chiến lược, nghị quyết, chương trình hành động có đề cập tới việc thực thi FTA được ban hành tương đối nhiều nhưng phần lớn mới đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và các giải pháp chung mà thiếu những giải pháp mang tính trọng tâm, đột phá, những giải pháp riêng cho việc thực thi các FTA. Đối với 3 FTA thế hệ mới, mặc dù các kế hoạch của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương đã chi tiết hơn song vẫn có nhiều nội dung công việc chưa xác định được rõ kết quả sản phẩm và thời hạn hoàn thành.

Hai là, công tác giám sát, đánh giá tình hình thực thi các FTA được thực hiện chưa thường xuyên, đặc biệt là còn thiếu các hoạt động giám sát trực tiếp tại cơ sở dẫn đến nội dung báo cáo nhiều khi còn mang tính hình thức, thiếu độ tin cậy và chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Điều này làm hạn chế vai trò tham mưu, điều phối và khả năng kịp thời điều chỉnh chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước.

Ba là, cơ chế tham vấn và phản hồi 2 chiều giữa cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình thực thi các FTA chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay mới chỉ có cơ chế tham vấn cộng đồng doanh nghiệp đối với việc đàm phán các FTA quy định tại Quyết định số 06/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tham vấn cộng đồng doanh nghiệp về các thỏa thuận thương mại quốc tế, mà chưa có cơ chế tham vấn trong quá trình thực thi. Điều này dẫn đến việc cơ quan quản lý chưa nắm bắt đầy đủ, kịp thời những khó khăn, vướng mắc thực tế của doanh nghiệp trong quá trình thực thi FTA để có những điều chỉnh chính sách sát với nhu cầu thực tiễn.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Thứ nhất, rà soát và tích hợp hệ thống văn bản chỉ đạo điều hành việc thực thi các FTA để tránh trùng lặp và phân tán nguồn lực. Xem xét thành lập một nhóm công tác liên ngành, bao gồm đại diện từ các bộ, ngành để rà soát toàn bộ văn bản hiện hành, xác định các nội dung trùng lặp hoặc mâu thuẫn, trên cơ sở đó đề xuất hủy bỏ hoặc sửa đổi các văn bản không còn phù hợp, đồng thời làm cơ sở cho việc xây dựng văn bản mới có tính đồng bộ và trọng tâm hơn

Thứ hai, thể chế hóa cơ chế giám sát, đánh giá thực thi FTA thế hệ mới bằng hệ thống chỉ số toàn diện, kết hợp đánh giá từ cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Xem xét xây dựng và ban hành một Bộ chỉ tiêu đánh giá thực thi FTA mang tính pháp quy để áp dụng thống nhất trên toàn quốc.

Thứ ba, tăng cường phối hợp liên ngành trong thực thi các FTA thế hệ mới, tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan đầu mối về hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi FTA từ trung ương tới địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về hội nhập và đầu tư nguồn lực cho công tác thực thi FTA tại địa phương

Thứ tư, đẩy mạnh và thể chế hóa cơ chế tham vấn giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong quá trình thực thi các FTA thế hệ mới bằng việc thiết lập và duy trì thường xuyên các kênh tham vấn định kỳ, như đối thoại công - tư, diễn đàn ngành hàng, tổ công tác liên ngành hoặc cơ chế phản hồi chính sách thông qua hiệp hội doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới.

KẾT LUẬN

Các FTA thế hệ mới đã và đang mang lại nhiều kết quả tích cực cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư, cải cách thể chế và thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam nhưng cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác quản lý nhà nước như việc cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo, tăng cường cơ chế giám sát, đánh giá, tham vấn doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, cần xây dựng giải pháp trọng tâm, khả thi và gắn với nhu cầu thực tiễn. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể khai thác tối đa cơ hội từ các FTA thế hệ mới và chuyển hóa cam kết thành lợi ích thiết thực cho nền kinh tế.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2022-2024). Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam các năm, từ năm 2021 đến năm 2024, Nxb Công Thương

2. Cục Thống kê - Bộ Tài chính (2025). Niên giám Thống kê 2024, Nxb Thống kê.

3. Thủ tướng Chính phủ (2017). Chỉ thị số 38/CT-TTg ngày 19/10/2017 về tăng cường thực hiện và khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực.

4. Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế (2023). Báo cáo Hội nhập kinh tế quốc tế năm 2022.

5. Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế (2025). Báo cáo Hội nhập kinh tế quốc tế năm 2024.

Ngày nhận bài: 20/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 2/10/2025; Ngày duyệt đăng: 7/10/2025