Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường tại TP. Hồ Chí Minh: Góc nhìn từ sinh viên Khoa Ngoại ngữ

Nghiên cứu này nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường từ 22-25 tuổi thuộc Khoa Ngoại ngữ của các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh với 396 đối tượng khảo sát.

Nguyễn Thu Trang (tác giả liên hệ)

Email: trangnt@huit.edu.vn

Nguyễn Thu Hương

Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh

Nguyễn Văn Tân

Trường Đại học Lạc Hồng

Lưu Thị Thanh Mai

Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường từ 22-25 tuổi thuộc Khoa Ngoại ngữ của các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh với 396 đối tượng khảo sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 6 nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường, đó là: Khẳng định tính khả thi, Nhận thức về xu hướng phát triển của thị trường, Khuynh hướng thể hiện bản thân, Sự định hướng từ các mối quan hệ cá nhân, Thái độ đối với khởi nghiệp, Sự tiếp cận với các nguồn lực. Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy ý định khởi nghiệp của sinh viên Khoa ngoại ngữ tại TP. Hồ Chí Minh.

Từ khóa: Các yếu tố, tác động, ý định khởi nghiệp, sinh viên khoa ngoại ngữ, PLS-SEM

Summary

This study explores the factors influencing entrepreneurial intentions among recent graduates aged 22-25 from the Faculties of Foreign Languages at universities in Ho Chi Minh City, based on a survey of 396 respondents. The findings reveal six key factors affecting the entrepreneurial intentions of these graduates: Perceived feasibility, Awareness of market development trends, Self-expression tendency, Orientation from personal relationships, Attitude toward entrepreneurship, and Access to resources. Based on the results, the authors propose several solutions to promote entrepreneurial intentions among foreign language students in Ho Chi Minh City.

Keywords: Factors, influence, entrepreneurial intention, foreign language students, PLS-SEM

ĐẶT VẤN ĐỀ

Với vai trò ngày càng quan trọng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế, thì khởi nghiệp đã và đang trở thành một trong những yếu tố giúp đa dạng hóa các hoạt động kinh tế và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Do đó, khởi nghiệp dành cho sinh viên, thanh niên - những đối tượng nòng cốt của lực lượng lao động - được đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở các định hướng, chính sách của Nhà nước, các trường đại học đã đưa nhiều chương trình giáo dục khởi nghiệp, cuộc thi khởi nghiệp, giúp sinh viên, thanh niên tiếp cận với các chương trình khởi nghiệp để họ có cơ sở hình thành ý tưởng khởi nghiệp và chuẩn bị hành trang trong môi trường kinh doanh đầy thách thức. Thực tế cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp thành công bước ra từ làn sóng khởi nghiệp ngày càng được lan toả mạnh mẽ tạo ra những sản phẩm/dịch vụ mới phù hợp với kỷ nguyên số hiện nay, như: Be Group, Coolemate, Dat Bike, Kiot Viet, Momo, Tiki, VNG, Juno, Vietcetera, ColorME, YBox, Kenh14, uCall, SpaceShare, Tomorrow Marketer Academy… Trong đó, các cuộc thi khởi nghiệp chính là tiền đề quan trọng. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung vào đối tượng là sinh viên mới ra trường khối ngành ngoại ngữ của các trường đại học tại TP Hồ Chí Minh, từ đó khám phá những yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của họ và đưa ra các khuyến nghị để thúc đẩy các ý định đó.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Theo Ajzen (1991), ý định khởi nghiệp có khả năng dự đoán hành vi khởi nghiệp tốt nhất. Ông cho rằng, hình thành ý định khởi nghiệp trước rồi đến quyết định thành lập công ty. Theo Tkachev và Kolvereid (1999), Shi và cộng sự (2020), ý định khởi nghiệp được xây dựng từ các yếu tố cá nhân, bối cảnh xã hội và thái độ làm việc của người đó mang tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn đổi mới và chấp nhận rủi ro để tạo ra giá trị cho doanh nghiệp riêng của mình. Rosli và Sidek (2013) cho rằng, ý định khởi nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các hoạt động khởi nghiệp kinh doanh và khả năng trở thành một doanh nhân thực sự. Ý định khởi nghiệp có thể được định nghĩa là sự chuẩn bị của một cá nhân để bắt đầu một doanh nghiệp (Souitaris và cộng sự 2007); việc lập kế hoạch và tạo dựng một doanh nghiệp là một quá trình (Gupta và Bhawe, 2007). Để tạo lập doanh nghiệp của riêng mình thì cá nhân phải bắt nguồn từ việc họ nhận ra cơ hội, tận dụng các nguồn lực sẵn có (Kuckertz và Wagner, 2010). Ý định khởi nghiệp là bước đầu tiên trong sự phát triển kinh doanh và đôi khi cũng là quá trình lâu dài của sự sáng tạo mạo hiểm (Lee và Wong, 2004). Theo Schwarz và cộng sự (2009), dự định khởi sự kinh doanh của sinh viên xuất phát từ các ý tưởng của sinh viên và được định hướng đúng đắn từ chương trình giáo dục và những người đào tạo. Ý định khởi nghiệp nhằm mục đích khởi động, sau đó sẽ là tiền đề cần thiết để thực hiện các hành vi kinh doanh (Alain và Gailly, 2006).

Giả thuyết nghiên cứu đề xuất

Tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy, có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên dựa trên lý thuyết Hành vi hoạch định (TPB) của Ajzen (1991) và Lý thuyết Sự kiện khởi nghiệp (SEE) của Shapero và Sokol (1982). Có thể kể đến nghiên cứu của Prathap và Sreelakshmi (2021) sử dụng mô hình SEE làm cơ sở lý thuyết nền tảng. Nghiên cứu của Linan và Chen (2009), Shi và cộng sự (2020)… sử dụng mô hình TPB làm cơ sở lý thuyết nền tảng. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Linh và cộng sự (2022) của sinh viên tại Trường Đại học Kiên Giang, đặc biệt là sinh viên khối ngành Kinh tế cho thấy có 3 yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Đặc điểm tính cách, Nhận thức kiểm soát hành vi và Ý kiến của người xung quanh. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Nguyệt Thu (2024) tại Trường Đại học Phú Yên cho rằng, 5 nhân tố có ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên là: Đặc điểm tính cách, Nhận thức kiểm soát hành vi, Thái độ đối với hành vi kinh doanh, Giáo dục kinh doanh/Cảm nhận sự hỗ trợ của giáo dục, Địa vị xã hội. Luận án tiến sĩ của Giao Thị Hoàng Yến (2022) nhận định rằng, tác động tích cực của giáo dục khởi nghiệp tới ý định khởi nghiệp theo hướng bền vững của sinh viên Việt Nam và đánh giá cao tầm quan trọng của giáo dục khởi nghiệp đến ý định khởi nghiệp. Đồng thời cũng cùng kết luận với các nghiên cứu của Peterman và Kennedy (2003), Kolvereid và Isaksen (2006), Dell (2008) ủng hộ quan điểm: ý định khởi nghiệp chịu ảnh hưởng của giáo dục khởi nghiệp.

Trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm tác giả dựa trên cơ sở khung lý thuyết nền tảng là 2 mô hình TPB, SEE và kế thừa một số nội dung của các nghiên cứu trước đây để đưa ra mô hình đề xuất nghiên cứu. Lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới tốt nghiệp Khoa Ngoại ngữ của các trường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh căn cứ vào cả nhóm yếu tố bên trong và nhóm yếu tố bên ngoài của sinh viên. Từ các nghiên cứu trước đây, chúng tôi vừa kế thừa và vừa đưa ra những góc nhìn khác để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu sau:

H1: Sự tiếp cận với các nguồn lực có ảnh hưởng thuận chiều đến Khẳng định tính khả thi.

H2: Sự định hướng từ các mối quan hệ cá nhân có ảnh hưởng thuận chiều đến Khẳng định tính khả thi.

H3: Nhận thức về xu hướng phát triển của thị trường có ảnh hưởng thuận chiều đến Khẳng định tính khả thi.

H4: Khuynh hướng thể hiện bản thân có ảnh hưởng thuận chiều đến Khẳng định tính khả thi.

H5: Thái độ đối với khởi nghiệp có ảnh hưởng thuận chiều đến Khẳng định tính khả thi.

H6: Khẳng định tính khả thi có ảnh hưởng thuận chiều đến Ý định khởi nghiệp.

Mô hình nghiên cứu đề xuất

Từ 6 giả thuyết nghiên cứu nói trên, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường tại TP. Hồ Chí Minh: Góc nhìn từ sinh viên Khoa Ngoại ngữ

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng kết hợp phương pháp định tính (phỏng vấn chuyên sâu) và phương pháp định lượng (điều tra khảo sát) khi tiến hành nghiên cứu về ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường từ 22-25 tuổi thuộc Khoa Ngoại ngữ của các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh.

Đối với nghiên cứu định tính, nhóm tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 10 đáp viên để kiểm tra sự phù hợp của mô hình nghiên cứu đề xuất với bối cảnh nghiên cứu, đồng thời hiệu chỉnh lại thang đo, hiệu chỉnh ngôn từ của thang đo cho phù hợp với bối cảnh và đối tượng nghiên cứu. Dựa trên kết quả nghiên cứu định tính để hoàn thiện bảng hỏi. Bảng hỏi làm trên Google Form được xây dựng trên thang đo Likert 5 mức độ, được phân phát đến các đáp viên qua Facebook, Zalo, Email. Từ kết quả phỏng vấn chuyên sâu, nhóm tác giả xác định mô hình nghiên cứu chính thức. Với mô hình đó, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thử với 150 đối tượng, làm cơ sở hoàn thiện các thang đo các biến số trong mô hình nghiên cứu.

Trong nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả tiến hành khảo sát dựa trên bảng câu hỏi được thiết kế sẵn với mẫu nghiên cứu là 450 và được chọn theo phương pháp lấy mẫu quả cầu tuyết. Sau đó, dữ liệu được mã hoá, làm sạch và tiến hành phân tích số phiếu hợp lệ là 396 bằng phần mềm SPSS 26.0 và SMART PLS 4.0 (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đánh giá mô hình đo lường

Chất lượng biến quan sát của các nhân tố (Outer Loadings)

Hệ số tải nhân tố (Outer Loadings) các biến quan sát đều > 0.7, do đó các biến quan sát đều có ý nghĩa trong mô hình, không loại biến quan sát nào,.

Độ tin cậy thang đo (Cronbach’s Alpha, CR) và tính hội tụ (AVE)

Bảng 1: Đánh giá độ tin cậy của thang đo và tính hội tụ

Biến

Ký hiệu

Hệ số Cronbach’s Alpha (CA)

Hệ số tin cậy tổng hợp (CR)

Phương sai trung bình được trích (AVE)

Sự định hướng từ các mối quan hệ

DH

0.848

0.892

0.623

Khẳng định tính khả thi

KT

0.841

0.893

0.676

Sự tiếp cận với các nguồn lực

NL

0.858

0.897

0.635

Nhận thức về xu hướng phát triển của thị trường

NT

0.785

0.861

0.609

Thái độ đối với khởi nghiệp

TD

0.877

0.907

0.620

Khuynh hướng thể hiện bản thẩn

TH

0.823

0.883

0.653

Ý định khởi nghiệp

YD

0.874

0.908

0.665

Nguồn: Kết quả phân tích và tổng hợp dữ liệu SMART-PLS 4.0 của nhóm tác giả

Bảng 1 cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha, Hệ số tin cậy tổng hợp Composite Reliability (CR) của các thang đo đều > 0.7, do vậy các thang đo đều đảm bảo độ tin cậy tốt. Phương sai trung bình được trích Average Variance Extracted (AVE) đều > 0.5, như vậy các thang đo đều đảm bảo tính hội tụ.

Đánh giá tính phân biệt

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số AVE lớn hơn các tương quan giữa các biến tiềm ẩn với nhau (hệ số tương quan nằm ở phần dưới giá trị đầu tiên của cột), do vậy tính phân bi tính quan nnh. Bên cạnh đó, tất cả các giá trị HTML đều

Đánh giá mô hình cấu trúc

Đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến tiềm ẩn (Inner VIF)

Với số liệu của cột giá trị Inner VIF, tất cả các giá trị VIF đều

Đánh giá ý nghĩa các quan hệ tác động trong mô hình

Đánh giá tác động trực tiếp và tác động trung gian

Bảng 2: Đánh giá tác động trực tiếp (SEM) và tác động trung gian

Hệ số hồi quy chuẩn hoá (O)

P Values

Kết luận

DH -> KT

0.207

0.000

Chấp nhận giả thuyết

KT -> YD

0.725

0.000

Chấp nhận giả thuyết

NL -> KT

0.095

0.011

Chấp nhận giả thuyết

NT -> KT

0.357

0.000

Chấp nhận giả thuyết

TD -> KT

0.143

0.000

Chấp nhận giả thuyết

TH -> KT

0.339

0.000

Chấp nhận giả thuyết

TH -> KT -> YD

0.246

0.000

Chấp nhận giả thuyết

TD -> KT -> YD

0.103

0.000

Chấp nhận giả thuyết

DH -> KT -> YD

0.150

0.000

Chấp nhận giả thuyết

NL -> KT -> YD

0.069

0.010

Chấp nhận giả thuyết

NT -> KT -> YD

0.259

0.000

Chấp nhận giả thuyết

Nguồn: Kết quả phân tích và tổng hợp dữ liệu SMART-PLS 4.0 của nhóm tác giả

Bảng 2 cho thấy, các mối tác động trực tiếp đều có ý nghĩa do p-value kiểm định t đều

Giá trị của R2, f2, Q2

Bảng 3: Giá trị của R2, f2, Q2, VIF

R2 hiệu chỉnh

f2

Q2

Inner VIF

KT

0.675

1.110

0.451

1.000

YD

0.525

0.347

DH

0.094

1.419

NL

0.025

1.142

NT

0.282

1.403

TD

0.054

1.170

TH

0.242

1.476

Nguồn: Kết quả phân tích và tổng hợp dữ liệu SMART-PLS 4.0 của nhóm tác giả

Bảng 3 cho thấy:

- Mức độ giải thích mô hình nghiên cứu: Giá trị R2 hiệu chỉnh của biến KT là 0.675; như vậy, các biến tác động vào KT giải thích được 67.5% sự biến thiên của biến này. Giá trị R2 hiệu chỉnh của biến YD là 0.525; như vậy, biến KT giải thích được 52.5% sự biến thiên của biến YD. Theo Hair và cộng sự (2014), giá trị R2 là 0,25 thể hiện cấu trúc nội sinh thấp, mức 0,5 thì tương đối và 0,75 thì ở mức cao.

- Hệ số đánh giá hiệu quả tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc f2: Hiệu quả tác động vào KT: biến NT, TH có ảnh hưởng trung bình; biến DH, NL, TD có ảnh hưởng nhỏ. Hiệu quả tác động vào YD: biến KT có ảnh hưởng mạnh. Theo Cohen (1988), ngưỡng so sánh của f2 như sau: f2

- Hệ số đánh giá năng lực dự báo ngoài mẫu Q2 (Q square): Giá trị Q2 dự báo ngoài mẫu của KT, YD rơi vào khoảng 0.25 - 0.5, như vậy mức độ dự báo ở các biến này ở mức trung bình. Ngưỡng đánh giá mức độ dự báo theo chỉ số Q2 theo Hair và cộng sự (2019) như sau: 0-0.25: khả năng dự báo thấp, 0.25-0.5: khả năng dự báo trung bình, > 0.5: khả năng dự báo cao.

Phân tích ANOVA

Bản chất của việc sử dụng phân tích ANOVA nhằm hỗ trợ đánh giá tác động của các biến định tính đến biến phụ thuộc. Cụ thể là xem xét tác động của các nhóm của các biến kiểm soát (Giới tính, Gia đình, Trải nghiệm kinh doanh, Được giáo dục khởi nghiệp, Kết quả học tập) đến Ý định khởi nghiệp của sinh viên.

Bảng 4: Kiểm định sự khác biệt ANOVA

Biến kiểm soát

Sig Levene’s Test

Sig. t-Test

Kết luận

Giá trị

Mean

Giới tính

0.830

0.407

Không có sự khác biệt

Nam

Nữ

Gia đình

0.524

0.001

Có sự khác biệt

3.6993

Không

3.4769

Trải nghiệm

0.507

0.000

Có sự khác biệt

3.7481

Không

3.4840

Được giáo dục khởi nghiệm

0.407

0.000

Có sự khác biệt

3.7285

Không

3.4649

Kết quả học tập

0.013

0.001

Sig kiểm định Welch

Có sự khác biệt

Xuất sắc/Giỏi

3.6732

Khá

3.5607

Trung bình trở xuống

3.3067

Nguồn: Kết quả phân tích và tổng hợp dữ liệu SPSS 26.0 của nhóm tác giả

Bảng 4 cho thấy:

- Sig. Levene’s Test = 0.830 > 0.05. Ta sử dụng kết quả Sig. kiểm định t hàng Equal variances assumed. Sig kiểm định t bằng 0.407 > 0.05, như vậy không có sự khác biệt ý định khởi nghiệp giữa các nhóm giới tính khác nhau.

- Sig. Levene’s Test = 0.524 > 0.05. Ta sử dụng kết quả Sig. kiểm định t hàng Equal variances assumed. Sig kiểm định t bằng 0.001

- Sig. Levene’s Test = 0.507 > 0.05. Ta sử dụng kết quả Sig. kiểm định t hàng Equal variances assumed. Sig kiểm định t bằng 0.000

- Sig. Levene’s Test = 0.407 > 0.05. Ta sử dụng kết quả Sig. kiểm định t hàng Equal variances assumed. Sig. kiểm định t = 0.000

- Sig. Levene’s Test = 0.013

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 6 nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên mới ra trường, đó là: Khẳng định tính khả thi, Nhận thức về xu hướng phát triển của thị trường, Khuynh hướng thể hiện bản thân, Sự định hướng từ các mối quan hệ cá nhân, Thái độ đối với khởi nghiệp, Sự tiếp cận với các nguồn lực. Bên cạnh đó, các biến kiểm soát về nhân khẩu học cũng có sự khác biệt tác động đến ý định khởi nghiệp. Cụ thể, nhóm sinh viên có truyền thống gia đình kinh doanh sẽ có ý định khởi nghiệp cao hơn nhóm gia đình không có truyền thống kinh doanh; nhóm sinh viên đã có sự trải nghiệm kinh doanh trước đây sẽ có ý định khởi nghiệp cao hơn nhóm sinh viên chưa từng có trải nghiệm kinh doanh; nhóm sinh viên có kết quả học tập đạt mức xuất sắc hoặc giỏi sẽ có ý định khởi nghiệp cao hơn nhóm sinh viên đạt mức khá hoặc trung bình.

Khuyến nghị giải pháp

Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị để thúc đẩy ý định khởi nghiệp của sinh viên khối ngành ngoại ngữ như sau:

Thứ nhất, nâng cao vai trò của giáo dục khởi nghiệp của các trường đại học. Nhà trường cần chuẩn hoá, nâng cấp hệ thống giáo trình, tài liệu và phương thức giảng dạy; tích hợp nội dung giáo dục khởi nghiệp vào chương trình giảng dạy. Song song với chương trình đào tạo, trường đại học nên liên tục mở ra các cuộc thi khởi nghiệp, tổ chức các buổi giao lưu với các doanh nhân/ startup thành công đến trường chia sẻ kinh nghiệm và tạo động lực cho sinh viên. Trường đại học đồng thời làm công tác liên hệ, kết nối sinh viên với doanh nghiệp bắt đầu từ thực tập, kiến tập và hướng nghiệp để sinh viên có thể tiếp xúc sớm với các hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ hai, nâng cao quản lý nhà nước về khởi nghiệp. Nhà nước ngày càng quan tâm đến khởi nghiệp của thanh niên, sinh viên và thậm chí học sinh. Những công ty khởi nghiệp thành công được coi là các hạt giống tốt cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước thời kỳ kỷ nguyên số. Hành lang pháp lý, các đề án, hệ sinh thái khởi nghiệp đang dần được chú trọng và quan tâm. Tuy nhiên, điều này cần phải được làm sâu rộng hơn, đầu tư phát triển nhiều hơn. Các cơ quan chính phủ và tổ chức tài chính phải tập trung vào việc đầu tư vào hạ tầng cần thiết cho khởi nghiệp hơn nữa, bao gồm các trung tâm ươm tạo và các quỹ đầu tư mạo hiểm. Trung tâm ươm tạo có vai trò cung cấp không gian làm việc chung, tổ chức các chương trình tư vấn và hỗ trợ tài chính cho các startup.

Thứ ba, nâng cao sự định hướng, hướng nghiệp việc làm cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên mới ra trường từ gia đình, thầy cô. Các trường đại học cần đẩy mạnh chương trình hướng nghiệp cho sinh viên. Từ phía gia đình cần phải có sự quan tâm, khích lệ động viên và định hướng nghề nghiệp, khơi gợi mục tiêu cho sinh viên mới ra trường.

Thứ tư, phát triển mạnh mẽ các cuộc thi về ý tưởng khởi nghiệp triển khai toàn diện tại Việt Nam. Tham gia các cuộc thi khởi nghiệp, sinh viên sẽ hình thành được ý tưởng kinh doanh, nhờ vào ham muốn chiến thắng của cuộc thi và tư duy nhạy bén từ thị trường. Ý tưởng kinh doanh là điểm quan trọng của khởi nghiệp, để gọi vốn thành công, cần phải xây dựng kế hoạch kinh doanh dựa trên ý tưởng kinh doanh, từ đó sinh viên sẽ có căn cứ rõ ràng để khẳng định được tính khả thi của hoạt động khởi nghiệp, kiểm chứng là được giải từ các cuộc thi hoặc học hỏi từ cuộc thi đó. Tham gia các cuộc thi về khởi nghiệp giúp sinh viên có trải nghiệm thực tế về khởi nghiệp, từ đó có thể thúc đẩy ý định khởi nghiệp cao hơn.

Thứ năm, tạo điều kiện để sinh viên có thể tiếp cận được với các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn. Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của các dự án startup chính là nguồns vốn. Khi có sự tiếp cận với các nguồn lực càng dễ dàng, thì ý định khởi nghiệp của sinh viên càng cao. Nhà đầu tư và quỹ đầu tư là 2 nguồn gọi vốn phổ biến hiện nay. Hiện nay, Việt Nam có hơn 200 quỹ đầu tư đang hoạt động trong và ngoài nước sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp, dự án với các phạm vi, chiến lược khác nhau. Các Quỹ đầu tư cần tăng cường kết nối với các trường đại học, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, tổ chức các cuộc thi khởi nghiệp và trao học bổng cho sinh viên, khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh hơn nữa các dự án khởi nghiệp vùng (ngoài 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh); cần có sự truyền thông và sự tiếp cận cởi mở hơn đối với sinh viên.

Tài liệu tham khảo:

1. Alain, F., and Gailly, B. (2006). Effect and Counter-Effect of Entrepreneurship Education and Social Context on Student's Intentions. E studios de economía aplicada. 24(2), 509-523.

2. Ajzen I. (1991). The theory of planned behaviour, Organizational behaviour and human decision processes, 50, 179-211.

3. Dell, M. S. (2008). An investigation of undergraduate student self-employment intention and the impact of entrepreneurship education and previous entrepreneurial experience. Doctor of Philosophy, School of Business University The Australia.

4. Giao Thị Hoàng Yến (2022). Ảnh hưởng của giáo dục khởi nghiệp đến ý định khởi nghiệp theo hướng bền vững của sinh viên Việt Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân.

5. Gupta, V. K., & Bhawe, N. M. (2007). The influence of proactive personality and stereotype threat on women’s entrepreneurial intentions. Journal of Leadership & Organizational Studies, 13(4), 73-85.

6. Hair, J. F., Sarstedt, M., Hopkins, L., & Kuppelwieser, V. G. (2014). Partial Least Squares Structural Equation Modeling (PLS-SEM). European Business Review, 26(2), 106-121.

7. Kolvereid, L., & Isaksen, E. (2006). New business start-up and subsequent entry into self-employment, Journal of business venturing, 21(6), 866-885.

8. Kuckertz, A., & Wagner, M. (2010). The influence of sustainability orientation on entrepreneurial intentions-Investigating the role of business experience. Journal of Business Venturing, 25(5), 524-539. doi:10.1016/j.jbusvent.2009.09.001

9. Lee, S. H., and Wong, P. K. (2004). An exploratory study of technopreneurial intentions: A career anchor perspective. Journal of business venturing, 19(1), 7-28.

10. Linan F. & Chen Y. W. (2006). Testing the entrepreneurial intention model on a twocountry sample. A Working Paper in the Documents de treball.

11. Nguyễn Thị Mỹ Linh, Lê Phương Ngọc Hiền, Trần Thị Huỳnh Lê,Nguyễn Hoài Thương, Nguyễn Thị Thúy An (2022), Giải pháp thúc đẩy ý định khởi nghiệp của sinh viên khối ngành kinh tế tại Trường Đại học Kiên Giang. Tạp chí Khoa học và công nghệ - Trường Đại học Hùng Vương, 26(1), 3-13.

12. Nguyễn Thị Nguyệt Thu (2024). Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên Trường Đại học Phú Yên. Tạp chí Khoa học và công nghệ Trường Đại học Hùng Vương, 35(2), 39-47.

13. Peterman, N. E., & Kennedy, J. (2003). Enterprise education: Influencing students’perceptions of entrepreneurship, Entrepreneurship theory and practice, 28(2), 129-144.

14. Prathap, S. K., & Sreelakshmi, C. C. (2021). Entrepreneurial learning and microcredit as triggers of micro-entrepreneurship in India. SEDME. Small Enterprises Development, Management and Extension Journal, 47(3).

15. Rosli, M. M., and Sidek, S. (2013). The Impact of innovation on the performance of small and medium manufacturing enterprises: Evidence from Malaysia. Journal of Innovation Management in Small and Medium Enterprises, 1, 1-16.

16. Shapero, A. & Sokol, L. (1982). Social dimensions of entrepreneurship. In C.A. Kent, D.L. Sexton, & K.H. Vesper (Eds.), The encyclopaedia of entrepreneurship (pp. 72–90). Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall.

17. Schwarz, E. J., Wdowiak, M. A., Almer-Jarz, D. A., & Breitenecker, R. J. (2009). The effects of attitudes and perceived environment conditions on students’ entrepreneurial intent. Education and Training, 51(4), 272-291. doi:10.1108/00400910910964566.

18. Shi, Y., Yuan, T., Bell, R., và Wang, J. (2020). Investigating the relationship between creativity and entrepreneurial intention: the moderating role of creativity in the theory of planned behavior. Frontiers in Psychology, 11, 1209.

19. Souitaris, V., Zerbinati, S., & Al-Laham, A. (2007). Do entrepreneurship programmes raise entrepreneurial intention of science and engineering students? The effect of learning, inspiration and resources. Journal of Business Venturing, 22(4), 566-591. doi:10.1016/j.jbusvent.2006.05.002

20. Tkachev, A. and Kolvereid, L. (1999) Self-Employment Intentions among Russian Students. Entrepreneurship & Regional Development, 11, 269-280.

Ngày nhận bài: 17/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 3/10/2025; Ngày duyệt đăng: 14/10/2025