TS. Nguyễn Xuân Bắc
Học viện Chính trị Khu vực I
Tóm tắt
Sau sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, tỉnh Bắc Ninh định hướng phát triển kinh tế theo hướng hiện đại, lấy công nghệ và chuyển đổi số làm trọng tâm. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố then chốt để thực hiện cơ cấu kinh tế mới của tỉnh. Bài viết phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, đồng thời đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu quy hoạch của tỉnh trong thời gian tới.
Từ khóa: Phát triển, nguồn nhân lực, quy hoạch, cơ cấu, Bắc Ninh
Summary
After the administrative merger, Bac Ninh province has oriented its economic development toward modernization, emphasizing technology and digital transformation as key drivers. In this context, the construction and development of a high-quality workforce have become crucial factors in implementing the province’s new economic structure. This paper analyzes the current status of Bac Ninh’s high-quality human resources, identifies existing limitations, and proposes solutions to enhance workforce quality in order to meet the province’s development planning requirements in the coming period.
Keywords: Development, human resources, planning, structure, Bac Ninh
GIỚI THIỆU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (NLCLC) được xem là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh và tốc độ tăng trưởng bền vững của các địa phương. Đối với tỉnh Bắc Ninh - trung tâm công nghiệp trọng điểm của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - yêu cầu về nguồn nhân lực càng trở nên cấp thiết khi Tỉnh đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, lấy công nghệ cao và chuyển đổi số làm nền tảng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực của Bắc Ninh vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển nguồn NLCLC phù hợp với định hướng cơ cấu kinh tế của Tỉnh là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, góp phần thúc đẩy Bắc Ninh phát triển bền vững trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
NLCLC là nhóm người có năng lực, trình độ, chuyên môn cao và đảm bảo được sức khỏe về cả thể chất và tinh thần trong quá trình lao động (Nguyễn Hữu Quỳnh, 1998). Theo góc độ mối quan hệ khả năng và hiện thực, nguồn NLCLC tồn tại dưới 2 dạng: tiềm năng (qua quá trình rèn luyện, đào tạo) và năng lực thực tế thể hiện qua kết quả, sản phẩm được làm ra (Nguyễn Ngọc Linh, 2023).
Một số ý kiến khác thì cho rằng, NLCLC là những người có trình độ về học vấn, chuyên môn, kỹ năng lao động để thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số. Như vậy, có thể hiểu rằng, NLCLC là những người lao động có trình độ, kỹ năng cao, đảm bảo sức khỏe về cả thể chất và tinh thần, đồng thời có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ nhằm đóng góp tích cực vào sự phát triển của tổ chức và xã hội.
YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO THEO CƠ CẤU KINH TẾ TỈNH BẮC NINH
Hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh đã chính thức sắp xếp vào ngày 1/7/2025, với tên gọi mới là tỉnh Bắc Ninh. Sau sắp xếp, Bắc Ninh định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, tiến bộ mà trọng tâm chính là phát triển nguồn NLCLC. Cơ cấu kinh tế xuất phát từ thực tiễn khách quan đã đặt ra yêu cầu mới cho phát triển nguồn nhân lực, cụ thể:
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh và mạnh theo hướng công nghiệp, dịch vụ đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với phát triển nguồn NLCLC. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng của tỉnh hiện chiếm trên 70% GRDP, dịch vụ gần 20%, nông nghiệp chỉ còn khoảng 10%. Bắc Ninh là “thủ phủ công nghiệp điện tử” với sự hiện diện của nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn như Samsung, Canon, Foxconn… Cùng với đó, Tỉnh định hướng phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ logistics, thương mại điện tử, tài chính ngân hàng. Những ngành này đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ, tay nghề cao, khả năng vận hành công nghệ hiện đại và thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ.
Thứ hai, sau sắp xếp, Bắc Ninh là một cực phát triển về kinh tế, văn hóa năng động của khu vực đồng bằng sông Hồng, kết nối chặt chẽ với Thủ đô Hà Nội khiến yêu cầu về NLCLC ngày càng rõ nét. Không chỉ dừng lại ở đào tạo lao động phổ thông, Bắc Ninh cần nguồn nhân lực có chuyên môn sâu về ứng dụng và chuyển giao công nghệ, quản lý doanh nghiệp, quản trị đô thị, chuyển đổi số. Trong khi đó, thực tế hiện nay cho thấy tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ở Bắc Ninh còn chưa đáp ứng được tốc độ phát triển. Tỉnh đang thu hút hàng trăm nghìn lao động nhập cư từ các địa phương khác, chủ yếu làm việc trong các khu công nghiệp không chỉ tạo áp lực về việc làm, an sinh xã hội, mà còn đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng và kỷ luật lao động, đào tạo kỹ năng, cũng như hình thành tác phong công nghiệp và ý thức công dân đô thị cho người lao động.
Thứ ba, thu hút, trọng dụng và giữ chân người tài, chuyên gia trở nên cấp thiết nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hiện đại, tiến bộ. Bắc Ninh cần có chính sách đủ mạnh về cơ chế về tiền lương, đãi ngộ, môi trường làm việc, cơ hội nghiên cứu và phát triển nghề nghiệp phải được thiết kế hấp dẫn, mang tính cạnh tranh cao nhằm thu hút đội ngũ trí thức, kỹ sư, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước. Đây là điều kiện để hình thành một đội ngũ NLCLC có khả năng dẫn dắt, đổi mới sáng tạo, thích ứng với xu thế công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế.
Tóm lại, cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc Ninh đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng hiện đại, tiến bộ đã đặt ra yêu cầu cho hoạt động phát triển nguồn nhân lực. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức buộc tỉnh phải có các chính sách, giải pháp đồng bộ, đột phá nhằm hình thành lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng, thích ứng với sự thay đổi của công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số, qua đó hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp - dịch vụ, đô thị hiện đại.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO THEO CƠ CẤU KINH TẾ CỦA TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh là một trong những địa phương có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Với vị trí chiến lược nằm ngay sát Thủ đô Hà Nội, cơ sở hạ tầng phát triển mạnh, cùng với sự hiện diện của nhiều tập đoàn công nghệ và sản xuất hàng đầu thế giới như Samsung, Canon, Foxconn…, Bắc Ninh đã trở thành một trung tâm công nghiệp điện tử và công nghiệp hỗ trợ quan trọng, đồng thời là địa phương thu hút một lượng lớn lao động từ khắp các tỉnh, thành.
Về quy mô nhân lực, sau sắp xếp, Bắc Ninh có dân số khoảng 3,6 triệu người, đứng thứ 14 trên cả nước, phân bố không đồng đều giữa xã, phường, dân số phần đông vẫn là dân cư nông thôn. Mật độ dân số Bắc Ninh là 767 người/km2, gấp hơn 2 lần mật độ dân số cả nước. Trong đó, theo tính toán, tổng hợp của tác giả từ số liệu của Bắc Ninh và Bắc Giang (cũ), lực lượng lao động chiếm khoảng 65% dân số, phản ánh rõ đặc điểm của giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”. Lực lượng lao động của Tỉnh tập trung nhiều ở khu vực công nghiệp và dịch vụ nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp tập trung, đồng thời, một bộ phận đáng kể tham gia vào sản xuất nông nghiệp. Với mật độ dân số cao, tốc độ đô thị hóa nhanh và sự hiện diện của nhiều tập đoàn đa quốc gia, Bắc Ninh đang trở thành một trong những địa phương có quy mô nguồn nhân lực lớn và năng động hàng đầu vùng Đồng bằng sông Hồng.
Chất lượng nhân lực trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh của nền kinh tế địa phương. Theo tính toán, tổng hợp của tác giả từ số liệu của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của 2 tỉnh cũ, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 78%, trong đó lao động có bằng cấp, chứng chỉ xấp xỉ 34%. Con số phản ánh sự chú trọng của tỉnh đối với đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng lao động.
Nhìn chung, nguồn nhân lực Bắc Ninh có ưu thế về số lượng, tính cần cù, nhanh nhạy, nhưng cũng phải đối mặt với một số thách thức, cụ thể:
Thứ nhất, phát triển nguồn NLCLC ở Bắc Ninh chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ cho nền kinh tế. Chất lượng lao động của tỉnh tuy được cải thiện, song vẫn còn khoảng cách đáng kể so với yêu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao và so với chất lượng lao động ở các nước tiên tiến trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore. Mức độ ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất, quản lý của lao động Bắc Ninh còn hạn chế, năng suất lao động chưa cao, dẫn đến sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp trên địa bàn chưa thực sự bền vững.
Thứ hai, cơ chế, chính sách về đào tạo và sử dụng lao động qua đào tạo ở Bắc Ninh chưa thực sự đồng bộ, đủ mạnh để tạo động lực cho phát triển nguồn NLCLC cả về số lượng và chất lượng. Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động trong doanh nghiệp chưa thuận lợi, nhiều đối tượng khó tiếp cận được. Cơ chế thu hút, đãi ngộ và sử dụng nhân tài, nhất là những người có trình độ chuyên môn cao, chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ còn thiếu tính cạnh tranh, chưa được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ và chuyển đổi số.
Thứ ba, công tác kết nối và cung cấp thông tin về thị trường lao động chất lượng cao của Tỉnh còn hạn chế. Các trung tâm dịch vụ việc làm chưa phát huy tốt vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và người lao động; hình thức, phương thức tư vấn, xúc tiến việc làm còn đơn điệu, chậm đổi mới. Bắc Ninh trước và sau sáp nhập chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, đồng bộ về nguồn NLCLC; công tác thống kê, dự báo nhu cầu lao động của doanh nghiệp còn thiếu chính xác, chưa theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Qua những phân tích trên, tác giả đưa ra một số đề xuất phát triển nguồn NLCLC theo cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới:
Thứ nhất, Bắc Ninh cần hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ NLCLC. Các chế độ đãi ngộ phải rõ ràng, phù hợp với thực tiễn, mang tính đột phá để nhân tài yên tâm cống hiến lâu dài cho tỉnh. Đặc biệt, cần có chính sách thu hút và giữ chân chuyên gia, kỹ sư giỏi trong các lĩnh vực công nghệ cao, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, quản trị doanh nghiệp quốc tế. Việc ưu tiên sử dụng hiệu quả nhân lực tại chỗ, gắn với đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho lao động địa phương cũng là giải pháp quan trọng nhằm giảm phụ thuộc vào lao động ngoại tỉnh, nâng cao chất lượng và tính bền vững của nguồn nhân lực.
Thứ hai, cần gắn đào tạo NLCLC với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Bắc Ninh là trung tâm sản xuất công nghiệp điện tử hàng đầu cả nước, do vậy việc phát triển nguồn NLCLC phải song hành với ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Phát triển kinh tế số, công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi nguồn nhân lực ở Bắc Ninh phải có khả năng tiếp cận nhanh với công nghệ mới, thích ứng với xu hướng sản xuất xanh, tuần hoàn và bền vững.
Thứ ba, Tỉnh cần xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, tập trung vào các ngành nghề mũi nhọn theo cơ cấu kinh tế của Bắc Ninh (công nghiệp chế biến - chế tạo, điện tử, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin, dịch vụ logistics, thương mại điện tử, du lịch văn hóa…). Cùng với đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong đào tạo, hiện đại hóa cơ sở vật chất, tăng cường đào tạo thực hành gắn với doanh nghiệp để bảo đảm “học đi đôi với hành”.
Thứ tư, Bắc Ninh cần tăng cường kết nối, liên kết phát triển NLCLC với các địa phương khác, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội. Tỉnh có thể phát triển một số ngành đào tạo trọng điểm, đầu tư tập trung để hình thành các trung tâm giáo dục nghề nghiệp và đại học chất lượng cao, không chỉ cung ứng nhân lực cho Bắc Ninh mà còn cho toàn vùng. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, mở rộng kênh giao dịch việc làm trực tuyến, cung ứng NLCLC cho doanh nghiệp. Cơ cấu lao động cần tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm mạnh lao động nông nghiệp, tăng nhanh lao động trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là lao động có quan hệ việc làm ổn định, được đào tạo bài bản.
Tài liệu tham khảo:
1. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2024). Niên giám thống kê 2023, Nxb Thống kê.
2. Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang (2024). Niên giám thống kê 2023, Nxb Thống kê.
3. Nguyễn Hữu Quỳnh (1998). Đại Từ điển Kinh tế Thị trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức Bách khoa.
4. Nguyễn Ngọc Linh (2023). Phát triển nguồn NLCLC trong ngành dầu khí ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ.
5. Nguyễn Thị Tùng Lâm (2022). Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
6. Trọng Khánh (2025). Bắc Ninh: Đáp ứng tại chỗ NNLCLC. https://baobacninhtv.vn/bac-ninh-dap-ung-tai-cho-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-postid425445.bbg.
Ngày nhận bài: 10/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 9/10/2025; Ngày duyệt đăng: 17/10/2025 |