Thực trạng đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động trong các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bài viết khái quát thực trạng đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động trong các làng nghề truyền thống của tỉnh Bắc Ninh (trước khi sắp xếp), từ đó đề xuất một số giải pháp liên quan.

Bùi Thị Nhung

NCS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Hệ thống an sinh xã hội không chỉ mang ý nghĩa hỗ trợ, chia sẻ rủi ro mà còn là động lực thúc đẩy tăng trưởng bao trùm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và củng cố niềm tin xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và những biến động kinh tế - xã hội toàn cầu đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với việc hoàn thiện cơ chế đảm bảo an sinh xã hội. Thực trạng ở nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và làng nghề truyền thống, cho thấy khoảng trống an sinh vẫn còn đáng kể: số lượng lao động phi chính thức lớn, khả năng tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế còn hạn chế, hệ thống trợ giúp xã hội chưa bao phủ đầy đủ, trong khi nguồn lực tài chính và năng lực thực thi chính sách còn phân tán. Bài viết khái quát thực trạng đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động trong các làng nghề truyền thống của tỉnh Bắc Ninh (trước khi sắp xếp), từ đó đề xuất một số giải pháp liên quan.

Từ khóa: an sinh xã hội, người lao động, làng nghề truyền thống, tỉnh Bắc Ninh

Summary:

The social security system not only serves as a mechanism for support and risk-sharing but also acts as a driving force for inclusive growth, improving human resource quality, and strengthening social trust. However, in practice, the rapid development of the market economy, the process of industrialization and modernization, and global socio-economic fluctuations have posed new requirements for improving the social security mechanism. The current situation in many localities, particularly in rural areas and traditional craft villages, reveals significant gaps in social protection: a large informal labor force, limited participation in social and health insurance, and insufficient social assistance coverage, while financial resources and policy implementation capacity remain fragmented. This paper outlines the current state of social security provision for workers in traditional craft villages in Bac Ninh province (before restructuring) and proposes several related solutions.

Keywords: Social security, workers, traditional craft villages, Bac Ninh province

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển kinh tế làng nghề, tỉnh Bắc Ninh đã đạt nhiều kết quả tích cực trong việc mở rộng hệ thống an sinh xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động (NLĐ). Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ như tăng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội (BHXH) và triển khai trợ giúp xã hội cho các nhóm yếu thế, vẫn còn tồn tại những thách thức đáng kể. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống an sinh xã hội theo hướng toàn diện, linh hoạt, đa tầng và lấy NLĐ làm trung tâm.

THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI TỈNH BẮC NINH

Những kết quả đạt được

Trong những năm qua, công tác đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã đạt được một số kết quả tích cực, phản ánh sự quan tâm ngày càng cao của các cấp chính quyền cũng như sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và NLĐ.

Về mở rộng diện bao phủ BHXH và BHYT

Trong giai đoạn vừa qua, Bắc Ninh đã đạt được những kết quả rõ nét trong việc mở rộng diện bao phủ chính sách BHXH và BHYT. Theo báo cáo của BHXH tỉnh Bắc Ninh, đến cuối năm 2023, toàn Tỉnh có trên 1,1 triệu người tham gia BHYT, tương ứng với tỷ lệ bao phủ trên 93% dân số, cao hơn mức trung bình của cả nước là 91,1% (BHXH Việt Nam, 2023). Đây là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, giảm thiểu gánh nặng chi phí y tế ngoài túi cho hộ gia đình, đặc biệt là nhóm lao động có thu nhập trung bình và thấp.

Về BHXH, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt hơn 320.000 lao động, chiếm khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi. Tỷ lệ này vẫn thấp so với mục tiêu toàn quốc về mở rộng diện bao phủ BHXH, song phản ánh đặc điểm cơ cấu kinh tế - xã hội của Bắc Ninh. Tỉnh có tỷ trọng lớn lao động làm việc trong các khu công nghiệp, vốn dễ dàng tham gia BHXH bắt buộc. Nhưng lực lượng lao động phi chính thức trong làng nghề truyền thống và khu vực hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ lệ đáng kể, dẫn đến “khoảng trống” chính sách cần tiếp tục thu hẹp.

Đáng chú ý, số người tham gia BHXH tự nguyện tăng trưởng nhanh, từ dưới 10.000 người năm 2018 lên trên 25.000 người vào năm 2023. Mức tăng trưởng này gấp hơn 2,5 lần chỉ trong vòng 5 năm, phản ánh 2 xu hướng tích cực: (i) sự cải thiện nhận thức của NLĐ phi chính thức về lợi ích lâu dài của việc tham gia BHXH tự nguyện, đặc biệt trong bối cảnh già hóa dân số nhanh tại Việt Nam; và (ii) hiệu quả của các chương trình truyền thông chính sách, cùng với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho người tham gia (tối đa 30% mức đóng với hộ nghèo, 25% với hộ cận nghèo theo Nghị định số 134/2015/NĐ-CP và các quy định sửa đổi).

Hình 1: Số người tham gia BHXH tự nguyện tại Bắc Ninh giai đoạn (2018-2023)

Thực trạng đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động trong các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Nguồn: Sở Lao động Thương binh Xã hội, nay là Sở Nội vụ Bắc Ninh (2018-2023)

Bắc Ninh có những bước tiến rõ rệt trong mở rộng diện bao phủ an sinh xã hội so với trung bình cả nước. Kết quả này phản ánh quá trình thay đổi căn bản về nhận thức, hành vi và sự gắn kết của NLĐ với hệ thống an sinh chính thức. Đây là nền tảng quan trọng để tỉnh từng bước tiến tới mục tiêu “BHXH toàn dân” và “BHYT toàn dân” theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW (2018) của Trung ương.

Hình 2: So sánh tỷ lệ bao phủ BHYT và BHXH bắt buộc năm 2023

Thực trạng đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động trong các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bắc Ninh (2023)

Về chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ đối tượng yếu thế

Trong giai đoạn 2022-2023, tỉnh Bắc Ninh đã triển khai tương đối toàn diện chính sách trợ giúp xã hội và hỗ trợ đối tượng yếu thế. Theo thống kê của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bắc Ninh, toàn Tỉnh có khoảng 45.000 đối tượng đang được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, bao gồm người cao tuổi neo đơn, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, và đặc biệt là hàng nghìn người mất sức lao động hoặc thuộc diện nghèo, cận nghèo (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2023). Đây là nhóm đối tượng chịu nhiều rủi ro trong thị trường lao động, vốn dễ bị loại trừ khỏi các thiết chế BHXH chính thức. Việc chi trả trợ cấp thường xuyên không chỉ mang ý nghĩa hỗ trợ thu nhập tối thiểu, mà còn tạo ra một “tấm lưới an toàn” giúp họ duy trì điều kiện sống cơ bản, từ đó hạn chế gia tăng bất bình đẳng xã hội.

Đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng y tế và kinh tế do đại dịch COVID-19, Bắc Ninh là một trong những địa phương có lực lượng lao động tập trung đông trong các khu công nghiệp và làng nghề truyền thống, với hàng trăm nghìn lao động phi chính thức và nhập cư. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, năm 2021-2022, Bắc Ninh đã chi hàng trăm tỷ đồng cho các gói hỗ trợ khẩn cấp theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, với hơn 200.000 lượt NLĐ và hộ kinh doanh được thụ hưởng (BHXH Việt Nam, 2022). Riêng nhóm lao động trong khu công nghiệp và làng nghề, hàng chục nghìn người được hỗ trợ bằng các hình thức khác nhau, từ trợ cấp tiền mặt đến giảm trừ chi phí sinh hoạt, qua đó góp phần duy trì sản xuất, ổn định chuỗi cung ứng tại các doanh nghiệp.

Về chính sách ưu đãi và điều kiện phát triển nguồn nhân lực

Trong bức tranh chung về đảm bảo an sinh xã hội, chính sách ưu đãi và phát triển nguồn nhân lực của Bắc Ninh có ý nghĩa then chốt, hướng tới mục tiêu “trao cần câu” thay vì cho con cá”. Cùng với các chính sách BHXH và trợ giúp xã hội, Tỉnh đã coi đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với an sinh xã hội là công cụ chiến lược nhằm nâng cao năng lực tự bảo vệ của NLĐ trước rủi ro.

Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Bắc Ninh (2024), riêng trong năm 2023, toàn Tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho hơn 22.000 lao động, trong đó có trên 1.500 lao động thuộc các làng nghề truyền thống. Con số này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 6,8%) trong tổng số lao động được giải quyết việc làm, nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt, bởi lực lượng lao động trong làng nghề phần lớn thuộc khu vực phi chính thức, thường ít được tiếp cận với các thiết chế an sinh xã hội chính thức như BHXH, BHYT. Việc tạo thêm việc làm bền vững cho nhóm này không chỉ giúp ổn định thu nhập, mà còn từng bước nâng cao năng lực “tự an sinh” - tức khả năng chủ động duy trì và tái sản xuất sức lao động thông qua việc làm và thu nhập ổn định, giảm sự phụ thuộc vào trợ cấp ngắn hạn.

Về huy động nguồn lực tài chính cho an sinh xã hội

Bắc Ninh đã ưu tiên đáng kể đối với lĩnh vực này trong cấu trúc chi ngân sách công. Theo báo cáo của Bộ Tài chính (2023), chi ngân sách địa phương dành cho an sinh xã hội tại Bắc Ninh chiếm khoảng 28-30% tổng chi thường xuyên hằng năm, cao hơn mức bình quân cả nước khoảng 26%. Đây không chỉ là con số phản ánh năng lực tài chính của một tỉnh có thu ngân sách thuộc nhóm cao (năm 2023, tổng thu ngân sách Bắc Ninh đạt trên 35.000 tỷ đồng, đứng trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước, mà còn thể hiện rõ quyết tâm chính trị trong việc xây dựng “tấm lưới an toàn” cho người dân và NLĐ.

Xét về cơ cấu, chi ngân sách cho an sinh xã hội ở Bắc Ninh tập trung vào 3 mảng chủ yếu: (i) bảo trợ xã hội thường xuyên cho khoảng 45.000 đối tượng yếu thế; (ii) y tế và BHYT, với tỷ lệ bao phủ đạt trên 93% dân số; và (iii) hỗ trợ trực tiếp cho lao động nghèo, cận nghèo, cũng như các gói ứng phó khẩn cấp trong bối cảnh COVID-19. Cách phân bổ này cho thấy sự cân đối hợp lý giữa giải pháp “ngắn hạn” (trợ cấp, cứu trợ khẩn cấp) và “dài hạn” (y tế, bảo hiểm, phát triển nguồn nhân lực); đồng thời phù hợp với định hướng mà ILO (2019) khuyến nghị: nguồn lực tài chính cho an sinh xã hội cần bảo đảm tính bao trùm, ổn định và bền vững.

Việc Bắc Ninh ưu tiên chi ngân sách cho an sinh xã hội cao hơn mức bình quân cả nước có thể lý giải bởi đặc thù địa phương: (i) dân số nhập cư lớn trong các khu công nghiệp (hơn 30% lực lượng lao động địa phương là lao động nhập cư); (ii) tồn tại hàng chục làng nghề truyền thống với lực lượng lao động phi chính thức quy mô lớn; và (iii) tốc độ đô thị hóa nhanh kéo theo bất bình đẳng xã hội tiềm ẩn. Do đó, việc dành tỷ trọng ngân sách cao cho an sinh xã hội không chỉ nhằm bảo đảm phúc lợi xã hội, mà còn góp phần ổn định thị trường lao động, duy trì trật tự xã hội và tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững.

Về nâng cao nhận thức xã hội và vai trò của các chủ thể tham gia

Có thể coi đây là “trụ cột mềm” của hệ thống an sinh xã hội. Trong những năm gần đây, Bắc Ninh đã triển khai nhiều hình thức đa dạng để nâng cao nhận thức, bao gồm: tuyên truyền tại cơ sở, tổ chức đối thoại chính sách giữa NLĐ và doanh nghiệp, cùng với các hội nghị NLĐ định kỳ tại khu công nghiệp. Các hoạt động này không chỉ giúp NLĐ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH, BHYT, mà còn tạo ra “không gian đối thoại xã hội” - yếu tố mà ILO coi là nền tảng cho quan hệ lao động bền vững (ILO, 2019).

Kết quả đã được thể hiện rõ rệt qua sự thay đổi hành vi: tỷ lệ lao động trực tiếp yêu cầu ký hợp đồng lao động, cũng như tự nguyện tham gia BHXH, BHYT trong các khu công nghiệp, đã gia tăng qua từng năm. Đây là minh chứng cho thấy, bên cạnh chính sách, sự thay đổi về nhận thức xã hội đóng vai trò quyết định trong việc mở rộng diện bao phủ an sinh.

Hạn chế

Mặc dù hệ thống chính sách an sinh xã hội của tỉnh Bắc Ninh đã có bước tiến quan trọng trong việc mở rộng bao phủ và hỗ trợ nhóm lao động yếu thế, song khi xét riêng đối với lao động trong các làng nghề truyền thống, vẫn tồn tại nhiều hạn chế cả về phạm vi, chất lượng và mức độ bền vững.

Tỷ lệ tham gia BHXH, BHYT còn thấp

Theo số liệu của BHXH Việt Nam (2023), tỷ lệ lao động tham gia BHXH tự nguyện trong các làng nghề của Bắc Ninh chỉ dưới 10%, thấp hơn nhiều so với mức bình quân cả nước là 13,6% (BHXH Việt Nam, 2023). Trong khi đó, việc tham gia BHYT chủ yếu vẫn dừng lại ở hình thức hộ gia đình, ít gắn với quan hệ lao động chính thức.

Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này bắt nguồn từ đặc thù phi chính thức của thị trường lao động trong làng nghề. Phần lớn lao động làm việc theo hộ gia đình hoặc các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, không ký hợp đồng lao động, không được ràng buộc bởi quan hệ pháp lý với người sử dụng lao động. Thu nhập bình quân của lao động làng nghề chỉ ở mức 4-6 triệu đồng/tháng, thấp hơn so với mức thu nhập trung bình 7-9 triệu đồng/tháng của lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh (Tổng cục Thống kê, nay là Cục Thống kê, 2023). Thu nhập bấp bênh, mang tính mùa vụ khiến đa số lao động không đủ khả năng đóng góp định kỳ cho BHXH, vốn yêu cầu mức đóng khoảng 22% mức thu nhập lựa chọn.

Chất lượng việc làm và thu nhập chưa ổn định

Một trong những đặc điểm nổi bật của lao động trong các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh là tình trạng việc làm thiếu ổn định, thu nhập thấp và điều kiện lao động không đảm bảo. Theo Tổng cục Thống kê (2023), mức thu nhập bình quân của lao động làng nghề chỉ đạt 4-6 triệu đồng/tháng, thấp hơn đáng kể so với thu nhập bình quân của lao động trong khu công nghiệp, vốn dao động từ 7-9 triệu đồng/tháng. Khoảng cách chênh lệch 2-3 triệu đồng/tháng này phản ánh rõ bất bình đẳng thu nhập giữa 2 nhóm lao động cùng địa bàn.

Thu nhập bấp bênh khiến lao động làng nghề khó tiếp cận dịch vụ xã hội chất lượng cao, đồng thời hạn chế khả năng “tự an sinh” thông qua tích lũy hoặc tham gia BHXH, BHYT. Theo số liệu của BHXH Việt Nam (2023), tỷ lệ lao động làng nghề tham gia BHXH tự nguyện tại Bắc Ninh chỉ đạt dưới 10%, trong khi nhóm lao động trong khu công nghiệp có tỷ lệ tham gia BHXH bắt buộc cao hơn nhiều (trên 85%). Điều này cho thấy, sự khác biệt về thu nhập trực tiếp dẫn tới sự chênh lệch trong mức độ bao phủ an sinh.

Ở bình diện rộng hơn, tình trạng việc làm và thu nhập kém ổn định ở làng nghề không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân NLĐ, mà còn cản trở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Lao động có thu nhập thấp, dễ tổn thương trước biến động kinh tế, trở thành nhóm dễ tái nghèo, qua đó tạo thêm gánh nặng cho ngân sách địa phương trong việc chi trả trợ cấp xã hội ngắn hạn.

Công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức chưa hiệu quả

Một trong những điểm nghẽn quan trọng trong việc mở rộng diện bao phủ an sinh xã hội cho lao động ở các làng nghề truyền thống tỉnh Bắc Ninh chính là công tác tuyên truyền còn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu và chưa phù hợp với đặc thù lao động phi chính thức. Khác với lao động trong các khu công nghiệp - nơi có hệ thống công đoàn cơ sở, hội nghị NLĐ định kỳ và kênh truyền thông tập trung thì lao động làng nghề phân tán, chủ yếu làm việc tại các hộ gia đình hoặc xưởng nhỏ lẻ, thiếu quan hệ lao động chính thức, do đó ít có cơ hội tiếp cận thông tin chính thống về chính sách an sinh. Bắc Ninh là tỉnh có quy mô lao động làng nghề lớn, đặc biệt tập trung ở Quế Võ, Gia Bình, Tiên Du, vì vậy nhóm lao động phi chính thức trong làng nghề gần như chiếm tuyệt đại đa số. Chính tính chất phi chính thức này khiến việc tuyên truyền, đối thoại chính sách hay tổ chức hội nghị NLĐ chưa trở thành nền nếp.

Nguồn lực tài chính còn hạn chế và phân bổ chưa cân đối

Quy mô chi cho an sinh xã hội của Bắc Ninh cao nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu. Tỷ trọng chi ngân sách địa phương cho an sinh xã hội chiếm khoảng 28-30% tổng chi thường xuyên hằng năm, cao hơn mức bình quân cả nước (26%) (Bộ Tài chính, 2023). Đây là nỗ lực đáng ghi nhận, phản ánh quyết tâm chính trị trong việc bảo đảm phúc lợi. Tuy nhiên, nếu so với tốc độ gia tăng dân số cơ học do lao động nhập cư vào khu công nghiệp, cộng với quy mô hàng chục nghìn lao động phi chính thức trong làng nghề, nguồn lực này vẫn còn hạn chế, chưa đủ bao phủ toàn diện những nhóm đối tượng dễ tổn thương nhất.

Cấu trúc phân bổ ngân sách còn thiên lệch về “bảo trợ thụ động” thay vì “kích hoạt chủ động”. Phần lớn nguồn lực tập trung cho bảo trợ xã hội và chi y tế cơ bản, giúp duy trì mạng lưới an sinh tối thiểu nhưng lại thiếu các chương trình khuyến khích tham gia BHXH tự nguyện hoặc đào tạo nghề để nâng cao năng lực “tự an sinh” cho lao động. Điều này dẫn tới hệ quả là tỷ lệ lao động làng nghề tham gia BHXH tự nguyện ở Bắc Ninh vẫn dưới 10%, thấp hơn mức trung bình cả nước (13,6%) (BHXH Việt Nam, 2023), trong khi bao phủ BHYT đã đạt trên 93%. Sự lệch pha này cho thấy chính sách tài chính mới ưu tiên “an toàn y tế” mà chưa gắn kết đủ với “an toàn thu nhập dài hạn”.

Còn mất cân đối trong chi ngân sách kéo theo bất cập về công bằng và hiệu quả. Về công bằng, lao động phi chính thức - nhóm có thu nhập trung bình chỉ 4-6 triệu đồng/tháng (Tổng cục Thống kê, 2023) - lại ít được thụ hưởng các gói hỗ trợ để tham gia hệ thống an sinh chính thức, trong khi chính họ là đối tượng dễ tổn thương nhất trước rủi ro. Về hiệu quả, việc dồn chi cho bảo trợ xã hội ngắn hạn giúp giải quyết khó khăn tức thời nhưng lại tạo tâm lý “trông chờ” vào trợ cấp, thay vì khuyến khích NLĐ chủ động tham gia và duy trì BHXH, BHYT.

Thiếu cơ chế tài chính khuyến khích linh hoạt phù hợp với đặc thù làng nghề.

Nguồn lực hiện hành chưa tính đến tính mùa vụ và thu nhập không ổn định của lao động làng nghề nên chưa có những chính sách hữu hiệu hỗ trợ lao động làng nghề tham gia BHXH.

Thêm nữa, việc chi ngân sách chủ yếu cho trợ cấp lặp đi lặp lại làm gia tăng gánh nặng tài khóa mà không tạo ra tác động bền vững. Nếu không có sự điều chỉnh trong phân bổ, Bắc Ninh có nguy cơ rơi vào vòng luẩn quẩn: tăng chi bảo trợ → giảm sức ép ngắn hạn → nhưng lao động không được kích thích tham gia BHXH → lại phải tăng chi bảo trợ trong tương lai.

Vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội làng nghề và cộng đồng chưa phát huy mạnh mẽ

Trong khi khu vực doanh nghiệp FDI tại các khu công nghiệp của Bắc Ninh đã có sự gắn kết tương đối chặt chẽ với hệ thống an sinh xã hội thông qua việc ký kết hợp đồng lao động, tham gia BHXH bắt buộc và thực hiện các hội nghị NLĐ định kỳ, thì khu vực làng nghề lại cho thấy một khoảng trống lớn về sự tham gia của các chủ thể trung gian. Thực tế, hầu hết lao động làng nghề làm việc trong các hộ gia đình, xưởng nhỏ lẻ, ít chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật lao động, nên thiếu vắng các thiết chế trung gian như công đoàn cơ sở, hiệp hội ngành nghề hoặc chính quyền cấp xã làm đầu mối gắn kết chính sách với NLĐ.

GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội và NLĐ tham gia tích cực vào việc đảm bảo an sinh xã hội.

Theo đó, cần thay đổi trong truyền thông về an sinh xã hội: từ phổ biến đơn tuyến sang truyền thông tương tác - tạo động lực - dẫn dắt thay đổi hành vi; huy động các tác nhân xã hội như “trung gian hành vi” trong hệ sinh thái an sinh; thúc đẩy cơ chế xã hội hóa truyền thông an sinh qua hợp tác công - tư - cộng đồng; đánh giá hiệu quả truyền thông bằng công cụ khoa học xã hội hiện đại;

Hai là, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ gắn với từng chính sách của tỉnh.

Theo đó, cần tích hợp mục tiêu an sinh xã hội ngay từ khâu lập kế hoạch phát triển; xây dựng cơ chế tài chính phục vụ an sinh xã hội song hành với tăng trưởng; thiết kế chính sách phát triển kinh tế “hài hòa hóa lợi ích”; thúc đẩy vai trò điều tiết của Nhà nước qua cải cách quản trị địa phương; phát triển mô hình “làng nghề an sinh xã hội toàn diện”.

Lồng ghép an sinh xã hội vào chiến lược tăng trưởng kinh tế: tiếp cận tích hợp để bảo vệ NLĐ trong làng nghề truyền thống; gắn kết giữa chính sách hỗ trợ sản xuất và hỗ trợ an sinh: cơ chế “đồng đầu tư - đồng hưởng lợi”; phát triển chuỗi giá trị làng nghề theo hướng bền vững và có trách nhiệm xã hội; tích hợp an sinh xã hội trong các chương trình đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển đô thị tại Bắc Ninh.

Ba là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Trong điều kiện nguồn lực tài khóa có hạn, Tỉnh cần phát triển cơ chế tài chính đa tầng cho an sinh xã hội theo hướng: đa dạng hóa nguồn lực - phân tầng đối tượng - khuyến khích đồng chi trả có điều kiện. Cụ thể: định hình mô hình tài chính an sinh xã hội theo hướng đa tầng - đa nguồn - bền vững; đa dạng hóa kênh huy động tài chính theo hướng Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, cộng đồng và thị trường cùng tham gia; Phân bổ ngân sách có trọng điểm, gắn với hiệu quả và công bằng xã hội;…

Bốn là, tăng cường khả năng “tự an sinh” của NLĐ trên địa bàn tỉnh.

Một trong những điều kiện tiên quyết là NLĐ phải có kiến thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến an sinh xã hội, đặc biệt trong các nhóm lao động phi chính thức - vốn chiếm tỷ trọng lớn tại các làng nghề, khu vực nông thôn. Việc nâng cao năng lực tài chính và kỹ năng quản lý thu nhập sẽ giúp NLĐ hình thành hành vi tích lũy, tiết kiệm và chủ động tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình, bảo hiểm tai nạn,... thay vì trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.

Việc triển khai rộng rãi tài chính vi mô, quỹ tiết kiệm nhóm, quỹ tương trợ xã hội hoặc hợp tác xã tín dụng là giải pháp thiết thực để hỗ trợ NLĐ có thu nhập thấp tự xây dựng cơ chế bảo vệ rủi ro, vừa tạo động lực sản xuất vừa tăng khả năng phục hồi sau khủng hoảng.

Tự an sinh gắn chặt với năng lực làm chủ lao động và thích ứng với thị trường. Do đó, tăng cường khả năng “tự an sinh” cũng đồng nghĩa với việc phát triển năng lực học tập liên tục, giúp NLĐ không bị đào thải khi ngành nghề thay đổi. Các chương trình đào tạo nghề ngắn hạn, chuyển đổi kỹ năng, học nghề song hành (on-the-job training), đặc biệt ở các làng nghề truyền thống, là nền tảng cho sự bền vững của thị trường lao động và giảm phụ thuộc vào trợ cấp xã hội.

Định hướng chính sách để thúc đẩy “tự an sinh”: thể chế hóa quyền và trách nhiệm của NLĐ trong hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt trong BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình. Tăng cường hỗ trợ nhà nước có mục tiêu, theo nguyên tắc “đối ứng”, ví dụ như Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHXH tự nguyện nhưng gắn với điều kiện NLĐ tham gia đều đặn. Khuyến khích công nghệ số trong quản lý tài chính cá nhân, cung cấp thông tin, và quản trị rủi ro lao động, đặc biệt là nền tảng ứng dụng di động giúp NLĐ theo dõi quyền lợi an sinh xã hội, tiếp cận đào tạo kỹ năng...

Năm là, từng bước xây dựng và phát triển các lực lượng tham gia bảo đảm an sinh xã hội cho NLĐ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Để hiện thực hóa định hướng này tại Bắc Ninh, cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:

- Phân định và củng cố vai trò của từng chủ thể trong hệ thống an sinh xã hội: Chính quyền địa phương cần giữ vai trò chủ đạo trong hoạch định chính sách, điều phối liên kết giữa các lực lượng tham gia, đồng thời đảm bảo sự minh bạch, hiệu quả trong thực thi các chương trình an sinh xã hội.

- Thúc đẩy phát triển lực lượng trung gian hỗ trợ tiếp cận an sinh xã hội: Cần xây dựng và phát triển đội ngũ “cộng tác viên an sinh xã hội” tại địa phương - những người am hiểu luật pháp, có năng lực truyền thông và gắn bó với cộng đồng - để hỗ trợ NLĐ phi chính thức tiếp cận thông tin, hoàn thiện thủ tục tham gia và thụ hưởng an sinh xã hội. Đây là mô hình đã được áp dụng hiệu quả tại một số tỉnh như Vĩnh Phúc, Quảng Nam (cũ) và có thể nhân rộng tại Bắc Ninh.

- Tăng cường cơ chế đối thoại 3 bên Nhà nước - Doanh nghiệp - NLĐ: Thiết lập các diễn đàn đối thoại thường kỳ cấp xã, tỉnh về chính sách an sinh xã hội, tập trung vào các vấn đề như mức đóng - hưởng, điều kiện tham gia BHXH tự nguyện, mở rộng diện bao phủ BHYT hộ gia đình. Qua đó nâng cao tính dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội và nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan.

- Ứng dụng công nghệ số để kết nối và hỗ trợ các lực lượng tham gia an sinh xã hội: Tỉnh cần đầu tư xây dựng hệ thống quản trị an sinh xã hội thông minh tích hợp dữ liệu NLĐ trong các làng nghề, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể để phục vụ công tác giám sát, dự báo và ra quyết định. Đồng thời, phát triển các nền tảng trực tuyến nhằm tư vấn, giải đáp chính sách a sinh xã hội và hỗ trợ người dân đăng ký tham gia nhanh chóng, thuận tiện.

Tài liệu tham khảo:

1. BHXH Việt Nam (2023). Báo cáo tổng kết công tác năm 2023 của BHXH Việt Nam.

2. Nguyễn Thắng (2025). Sau sáp nhập, Bắc Ninh dự kiến chi hơn 8.000 tỷ đồng an sinh xã hội. https://tienphong.vn/sau-sap-nhap-bac-ninh-du-kien-chi-hon-8000-ty-dong-an-sinh-xa-hoi-post1759234.tpo.

3. Sở Công Thương Bắc Ninh (2023). Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023.

4. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh (2013-2024). Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác các năm, từ năm 2013 đến 2024.

5. Thảo Miên (2024). Tỷ trọng chi cho an sinh xã hội tăng dần qua các năm. https://thoibaotaichinhvietnam.vn/ty-trong-chi-cho-an-sinh-xa-hoi-tang-dan-qua-cac-nam-164399-164399.html.

6. Tổng cục Thống kê (2023). Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023.

Ngày nhận bài: 12/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 2/10/2025; Ngày duyệt đăng: 16/10/2025