Tăng cường hợp tác Việt Nam và Hàn Quốc trong phát triển mô hình công ty dịch vụ năng lượng tại Việt Nam

Bài viết đi sâu nghiên cứu những khó khăn khi triển khai mô hình Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) tại Việt Nam.

ThS. Mai Sỹ Thanh

Khoa Quản lý Công nghiệp và năng lượng, trường Đại học Điện lực

Email: thanhms@epu.edu.vn

Tóm tắt

Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện từ năm 2022. Trong đó, ngành năng lượng là lĩnh vực mà hai nước quốc gia thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hai nước chủ động hợp tác phát triển mạng lưới chuỗi cung ứng, tăng cường thương mại và đầu tư song phương. Một trong những sáng kiến ​​quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng tại Việt Nam là thúc đẩy tăng trưởng bền vững của mô hình Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO). Bài viết đi sâu nghiên cứu những khó khăn khi triển khai mô hình này tại Việt Nam, từ đó tác giả đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thúc đẩy phát triển mô hình Công ty dịch vụ năng lượng tại Việt Nam.

Từ khóa: Công ty dịch vụ năng lượng, hợp đồng hiệu quả năng lượng, tiết kiệm năng lượng.

Summary

Vietnam and South Korea established a Comprehensive Strategic Partnership in 2022, in which the energy sector has emerged as a key area of strengthened cooperation. In the context of climate change, the two countries have actively collaborated to develop supply chain networks and promote bilateral trade and investment. One of the important initiatives to ensure energy security in Vietnam is to foster the sustainable growth of the Energy Service Company (ESCO) model. This paper explores the challenges in implementing this model in Vietnam and proposes recommendations to enhance Vietnam–South Korea cooperation in promoting the development of ESCO model in our country.

Keywords: Energy service company, energy performance contract, energy saving

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hơn 30 năm qua, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hàn Quốc (năm 1992), quan hệ hai nước đã có những bước tiến đáng kể trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, hai bên đã ra Tuyên bố chung vào tháng 12/2022 nhằm tăng cường quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện. Lĩnh vực năng lượng là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối tác này, với sự khuyến khích mạnh mẽ hợp tác giữa hai quốc gia.

Một ví dụ điển hình cho sự hợp tác này là dự án "Thúc đẩy thị trường đầu tư hiệu quả năng lượng trong lĩnh vực công nghiệp và hỗ trợ Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam". Dự án được thực hiện từ năm 2021 đến năm 2025 với nguồn tài trợ 6,4 triệu đô la Mỹ từ Chính phủ Hàn Quốc thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA), thể hiện cam kết hỗ trợ Việt Nam đạt được phát triển bền vững. Tuy nhiên, dự án này chưa đóng góp đáng kể vào sự phát triển của mô hình Công ty Dịch vụ Năng lượng (ESCO) tại Việt Nam.

Thúc đẩy phát triển bền vững mô hình ESCO là một trong những nỗ lực trọng tâm nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng tại Việt Nam. Trên thế giới, ở nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU) và Hoa Kỳ, mô hình ESCO đã đạt được những kết quả kinh doanh tích cực trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng. Việc triển khai Hợp đồng Hiệu quả Năng lượng (EPC) thông qua ESCO đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của thị trường hiệu quả năng lượng và giảm gánh nặng vốn ngân sách nhà nước, nhờ khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án tiết kiệm năng lượng. Các tổ chức phát triển quốc tế và nguồn tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường ESCO tại nhiều nước đang phát triển.

Mặc dù có tiềm năng, mô hình ESCO tại Việt Nam vẫn còn tương đối mới, quy mô nhỏ và thiếu kinh nghiệm. Năng lực trong việc lập kế hoạch, giám sát các dịch vụ tiết kiệm năng lượng, kết nối với nhà thầu, cung cấp thiết bị và đảm bảo tài trợ cho các dự án còn hạn chế. Ngược lại, Hàn Quốc đã phát triển và hoàn thiện mô hình ESCO từ những năm 2000. Do đó, bài viết này tập trung phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc, qua đó thúc đẩy sự phát triển của mô hình ESCO tại Việt Nam.

HIỆN TRẠNG MÔ HÌNH CÔNG TY DỊCH VỤ NĂNG LƯỢNG TRÊN THẾ GIỚI

ESCO là mô hình doanh nghiệp cung cấp công nghệ và nguồn tài chính cần thiết cho người sử dụng năng lượng để nâng cấp hoặc thay thế các cơ sở hiện có, từ đó đạt được mục tiêu tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, ESCO cũng có thể là một công ty tư vấn chuyên về kiểm toán năng lượng, dịch vụ giám sát năng lượng, hoặc nhà cung cấp thiết bị tiết kiệm năng lượng với chuyên môn về hiệu quả và bảo tồn năng lượng.

Theo Báo cáo Thị trường ESCO toàn cầu năm 2025, có sự chênh lệch đáng kể trong sự phát triển của thị trường ESCO trên toàn thế giới, cho thấy cả cơ hội mở rộng ở các thị trường mới nổi và tiềm năng can thiệp chính sách mạnh mẽ hơn để thúc đẩy đầu tư vào các giải pháp hiệu quả năng lượng. Hai thị trường ESCO lớn nhất là Trung Quốc và Hoa Kỳ, lại không thể định lượng đầy đủ về số lượng EPC mới hoặc tổng quy mô đầu tư.

Các thị trường trưởng thành như Vương quốc Anh ước tính có 700 dự án đang hoạt động, là một chủ thể quan trọng ở châu Âu, trong khi Đức và Nam Phi mỗi nước báo cáo khoảng 500 dự án, cho thấy thị trường ESCO phát triển tốt với đầu tư ổn định vào các giải pháp hiệu quả năng lượng. Các thị trường quy mô trung bình lớn hơn bao gồm Malaysia với 206 dự án đang hoạt động, Thái Lan và Bỉ mỗi nước có 100 dự án, cho thấy mức độ áp dụng vừa phải và tiềm năng tăng trưởng. Philippines, Slovakia, Hàn Quốc, và Thổ Nhĩ Kỳ báo cáo từ 40 đến 70 dự án đang hoạt động, cho thấy các lĩnh vực ESCO nhỏ hơn nhưng có khả năng mở rộng. Cộng hòa Séc và Tây Ban Nha có khoảng 60 và 54 dự án ESCO đang hoạt động tương ứng, thuộc danh mục trung bình. Hoạt động ESCO tương đối thấp được ghi nhận ở Ba Lan với 30 dự án. Tại Đông Nam Á, Thái Lan, Malaysia và Philippines thể hiện hoạt động ESCO trung bình đầy hứa hẹn, phản ánh nhu cầu tăng nhưng vẫn còn kém so với các thị trường hàng đầu.

Dữ liệu cũng chỉ ra rằng các thị trường đang phát triển có thể đối mặt với rào cản tăng trưởng ESCO, đặc biệt ở các quốc gia như UAE, Mali, Mexico và Indonesia, nơi có rất ít hoặc không có dự án ESCO nào. Những thách thức này có thể xuất phát từ hạn chế tài chính, rào cản quy định, hoặc thiếu nhận thức về hợp đồng hiệu quả năng lượng.

Bảng: Xu hướng thị trường ESCO tại các quốc gia

Quốc gia

Số dự án

Số dự án mới

Quy mô thị trường

(USD)

Ba Lan

30

1

85 triệu

Nhật Bản

123

NA

Vương quốc Anh

700

100

700 triệu

Hàn Quốc

48

25

288 triệu

Nam Phi

>500

NA

Trung Quốc

-

-

70.000 triệu

Indonesia

2

3

175.000

Bỉ

100

10

300 triệu

Hungary

-

-

NA

Philippines

71

17

111 triệu

Đức

500

10

7.000 triệu

Slovakia

50

10

NA

Mali

0

0

NA

Hoa Kỳ (USA)

-

1877

-

Cộng hòa Séc

22

17

80 triệu

Thổ Nhĩ Kỳ

43

52

47 triệu

Thái Lan

100

85

187,5 triệu

Malaysia

206

-

-

Nguồn: Báo cáo thị trường ESCO toàn cầu 2025

Tại Hàn Quốc, kể từ khi ESCO lần đầu tiên được giới thiệu vào những năm 1990, thị trường ESCO Hàn Quốc đã mở rộng thành thị trường trị giá 72 triệu USD vào khoảng năm 2018 (chiếm khoảng 0,042% thị trường ESCO toàn cầu). Tính đến năm 2020, có 300 ESCO được đăng ký tại Hàn Quốc, với các hoạt động bao gồm giải pháp đồng phát nhiệt và điện kết hợp, thu hồi nhiệt thải, hệ thống sưởi ấm và làm mát, cải tiến quy trình, và chiếu sáng hiệu suất cao. Chính phủ Hàn Quốc đã tích cực tham gia với vai trò khách hàng, nhà tài trợ, nhà cung cấp thông tin và nhà hoạch định chính sách để dẫn dắt sự phát triển của ngành công nghiệp ESCO. Theo Bảng 1, thị trường ESCO của Hàn Quốc hiện có quy mô 288 triệu USD.

Hình: Số lượng ESCO đã đăng ký tại Hàn Quốc

Tăng cường hợp tác Việt Nam và Hàn Quốc trong phát triển mô hình công ty dịch vụ năng lượng tại Việt Nam

Nguồn: KAESCO, “Tình hình hiện tại của ESCO

Tại Việt Nam, kể từ năm 2005, mô hình ESCO đã được một số tư vấn viên, doanh nghiệp và cơ quan quản lý năng lượng tiếp cận thông qua Dự án “Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ” (PECSME). Theo ước tính, Việt Nam hiện có khoảng 200 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tư vấn tiết kiệm năng lượng. Dù vậy, số lượng đơn vị đăng ký hoạt động ESCO và vận hành theo mô hình ESCO thấp hơn rất nhiều.

KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC MÀ CÁC CÔNG TY DỊCH VỤ NĂNG LƯỢNG TẠI VIỆT NAM ĐANG ĐỐI MẶT

Hiện nay, việc phát triển mô hình ESCO tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Những thách thức này bao gồm thiếu các cơ chế pháp lý và tài chính cụ thể, sự đa dạng của khách hàng đòi hỏi kiến thức chuyên môn phù hợp với từng nhu cầu, và thiếu mạng lưới kết nối giữa các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức. Do đó, các hoạt động dịch vụ tiết kiệm năng lượng theo mô hình ESCO chủ yếu mang tính tự phát, quy mô nhỏ và chưa nhận được nhiều sự quan tâm từ phía doanh nghiệp.

Thứ nhất, rào cản về pháp lý và chính sách. Luật pháp hiện hành chưa cung cấp khuôn khổ pháp lý rõ ràng để phát triển thị trường tiết kiệm năng lượng thông qua cơ chế hợp đồng hiệu quả năng lượng theo mô hình ESCO. Việt Nam cũng chưa có hệ thống chứng nhận hoặc công nhận chính thức cho các ESCO. Các cơ quan hành chính chưa thể áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng theo mô hình ESCO do thiếu cơ chế thanh toán cho lượng năng lượng tiết kiệm được từ các dự án ESCO, cũng như thiếu quy định về tổ chức trung gian (bên thứ ba) để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa ESCO và doanh nghiệp. Đặc biệt, khó khăn trong việc thanh toán, giải ngân cho ESCO từ các doanh nghiệp nhà nước, cùng với các quy định về đấu thầu và thanh lý tài sản, là những rào cản lớn đối với hoạt động ESCO.

Thứ hai, hạn chế về tiếp cận tài chính. Mặc dù các ESCO tại Việt Nam thường có chuyên môn vững về công nghệ, nhưng lại thiếu kiến thức tài chính và hiểu biết cơ bản về các yêu cầu của các tổ chức tài chính. Các ngân hàng có xu hướng thận trọng trong việc đánh giá do thiếu chuyên môn cần thiết để xác định mức độ rủi ro liên quan đến công nghệ tiết kiệm năng lượng. Thêm vào đó, các ESCO thường không có đủ tài sản thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng và có tình hình tài chính yếu. Do đó, các quy định nội bộ về tín dụng cho vay của ngân hàng thường rất chặt chẽ đối với các ESCO và tỏ ra dè dặt trong việc tài trợ cho các dự án tiết kiệm năng lượng theo hình thức truyền thống.

Thứ ba, thách thức trong đo lường và xác minh. Các công ty ESCO thường gặp khó khăn trong việc chứng minh mức tiết kiệm năng lượng thông qua đo lường và xác minh (M&V). Vì khoản tiết kiệm năng lượng là yếu tố mang lại lợi tức đầu tư cho bất kỳ dự án hiệu quả năng lượng nào, các tổ chức tài chính và nhà đầu tư luôn yêu cầu đánh giá chính xác mức tiết kiệm đạt được. Tuy nhiên, hệ thống đo lường và hạch toán tiêu thụ năng lượng tại Việt Nam nhìn chung còn yếu kém.

Ngoài ra, còn tồn tại một số khó khăn và thách thức khác như:

Thiếu tin tưởng của khách hàng. Sự thiếu tin tưởng của khách hàng vào năng lực và khả năng của các công ty ESCO khiến mô hình kinh doanh này khó thành công tại Việt Nam.

Trở ngại thông tin. Thiếu thông tin chính xác và toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng đến tính khả thi của các sáng kiến tiết kiệm năng lượng, chẳng hạn như giá thành linh kiện hoặc tỷ giá hối đoái. Thông tin bất đối xứng cũng là một yếu tố góp phần gây ra vấn đề này, khi các bên tham gia thị trường hiệu quả năng lượng có xu hướng giữ kín thông tin nhằm bảo vệ lợi thế cạnh tranh của mình. Điều này dẫn đến dữ liệu chi phí không đầy đủ, khiến các công ty ESCO cho rằng công chúng chưa hiểu rõ về chi phí thực sự và lợi ích của việc cải tạo nâng cao hiệu quả năng lượng.

Thiếu quan tâm từ chủ đầu tư/tòa nhà: Việc các chủ đầu tư và chủ tòa nhà thiếu quan tâm đến các sáng kiến tiết kiệm năng lượng chủ yếu xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về những lợi ích của quản lý năng lượng. Thông tin về đo lường tác động trong các sáng kiến tiết kiệm năng lượng và dữ liệu chuẩn so sánh (benchmarking) về mức sử dụng năng lượng trong các tòa nhà và doanh nghiệp thường không có sẵn đối với các chủ sở hữu và nhà quản lý cơ sở. Điều này gây ra sự không chắc chắn trong việc ước tính rủi ro và lợi tức đầu tư.

TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC

Việc thúc đẩy và phổ biến mô hình ESCO tại Việt Nam đòi hỏi triển khai đồng bộ nhiều chương trình trong ba lĩnh vực chính: tài chính, công nghệ và chính sách. Các cơ quan và quỹ phát triển quốc tế đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển các công ty ESCO tại nhiều quốc gia đang phát triển, thường thông qua viện trợ không hoàn lại, các chương trình hỗ trợ và các khoản vay ưu đãi. Do đó, tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc là yếu tố cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của mô hình ESCO tại Việt Nam.

Dưới đây là một số kiến nghị nhằm tăng cường hợp tác Việt – Hàn để hỗ trợ sự phát triển của thị trường ESCO tại Việt Nam:

Thứ nhất, hỗ trợ tài chính ưu đãi. Chính phủ Hàn Quốc hoặc các cơ quan liên quan có thể cung cấp nguồn tài chính ưu đãi cho các công ty ESCO tại Việt Nam dưới dạng viện trợ không hoàn lại, các khoản vay lãi suất thấp hoặc không lãi suất.

Thứ hai, đào tạo và nâng cao năng lực. Các tổ chức năng lượng của Hàn Quốc có thể tổ chức các chương trình đào tạo chính thức hoặc hoạt động nâng cao năng lực cho các bên liên quan tại Việt Nam. Đối tượng bao gồm các công ty ESCO, nhà cung cấp công nghệ, quản lý tòa nhà, nhà quy hoạch, kiến trúc sư, cơ quan nhà nước, cán bộ tín dụng và quản lý rủi ro tại ngân hàng. Nội dung đào tạo nên tập trung vào: các mô hình kinh doanh ESCO khác nhau, khả năng thế chấp dòng tiền từ các dự án ESCO, tiêu chuẩn đánh giá dự án ESCO và quy trình rút gọn trong M&V mức tiết kiệm năng lượng.

Thứ ba, xây dựng hướng dẫn đo lường và xác minh. Với sự hỗ trợ từ các cơ quan Hàn Quốc, có thể xây dựng bộ hướng dẫn về đo lường và xác minh. Đối với các công ty ESCO – những đơn vị tham gia vào các hợp đồng tín dụng dài hạn – việc đo lường và xác minh là yếu tố then chốt để vận hành hiệu quả và bảo vệ quyền lợi của cả khách hàng lẫn nhà cung cấp. Việc xây dựng và phổ biến bộ hướng dẫn này sẽ thúc đẩy công nghệ M&V.

Thứ tư, thúc đẩy hợp tác và liên doanh. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, các công ty ESCO đa quốc gia đã góp phần vào sự phát triển của lĩnh vực này, hoạt động độc lập hoặc hợp tác với các công ty ESCO địa phương. Phương thức hiệu quả nhất cho hoạt động ESCO tại Việt Nam có thể là hợp tác và liên doanh giữa các đối tác Hàn Quốc và đối tác bản địa. Việc thiết lập các liên doanh giữa các công ty ESCO Hàn Quốc và các đơn vị quản lý năng lượng trong nước có thể cần được hỗ trợ bằng các hình thức khuyến khích (ví dụ: viện trợ không hoàn lại). Mô hình này mang lại lợi ích song phương: các công ty ESCO Hàn Quốc sẽ giảm thiểu khó khăn khi hoạt động tại Việt Nam mà không có đối tác địa phương, trong khi các đối tác Việt Nam có cơ hội tiếp nhận chuyển giao kỹ năng và kinh nghiệm.

Thứ năm, trao đổi kỹ thuật và kết nối kinh doanh. Tổ chức các hoạt động trao đổi kỹ thuật và nhân lực, đồng thời xây dựng các chương trình hỗ trợ kết nối kinh doanh giữa các nhà cung cấp dịch vụ ESCO của Việt Nam và Hàn Quốc. Một sự kiện kéo dài nhiều ngày nên được tổ chức cho các nhà cung cấp dịch vụ ESCO và các bên quan tâm, với mục tiêu trình bày các nghiên cứu điển hình từ doanh nghiệp ESCO Hàn Quốc và Việt Nam, chia sẻ thông tin về tình hình kinh doanh ESCO, và tạo cơ hội trao đổi trực tiếp giữa các nhà cung cấp ESCO.

Các kiến nghị trên đều đóng vai trò thiết yếu trong việc phát triển thị trường ESCO tại Việt Nam và thúc đẩy hoạt động của các công ty ESCO. Do phần lớn các hoạt động này sẽ tạo ra hiệu ứng cộng hưởng khi được thực hiện song song, có thể không tồn tại một thứ tự triển khai chung áp dụng cho tất cả.

Để nhận được sự hỗ trợ và hợp tác từ phía Hàn Quốc, chính phủ Việt Nam và các công ty ESCO cần chủ động cung cấp các thông tin gồm: Các quy định, luật pháp và thủ tục liên quan đến đầu tư tài chính và các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam; Cam kết của chính phủ trong việc thúc đẩy các hợp đồng hiệu quả năng lượng, hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển lĩnh vực ESCO; Cơ cấu và tổ chức của ngành năng lượng; Khả năng tiếp cận nguồn vốn (vay) cho các dự án; Mức độ tiếp cận và phổ biến của các giải pháp tiết kiệm năng lượng, các kênh thị trường (nhà sản xuất và phân phối thiết bị), cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật liên quan đến các công nghệ nhất định; Lãi suất và điều kiện tài chính hiện hành đối với các dự án tiết kiệm năng lượng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Năng lượng sạch Việt Nam. (2024). Phát triển mô hình ESCO, thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện những giải pháp tiết kiệm năng lượng. Https://nangluongsachvietnam.vn/d6/vi-VN/news/Phat-trien-mo-hinh-ESCO-thuc-day-doanh-nghiep-thuc-hien-nhung-giai-phap-tiet-kiem-nang-luong-6-1960-25652.

2. Trần Thanh Liên. (2023). Thực trạng và giải pháp thúc đẩy thị trường dịch vụ năng lượng ở Việt Nam. Https://www.erav.vn/tin-tuc/t244/thuc-trang-va-giai-phap-thuc-day-thi-truong-dich-vu-nang-luong-o-viet-nam.html.

3. Baek, J. S.*, Bhamra, T. (2022). Network Analysis of Complex Stakeholder Needs for Service Ecosystem Sustainability: A case study of South Korean ESCO industry. She Ji, 8(3), 362-384.

4. Camarasa, C., Lütken, S., & Yargattimath, T. (2025). Global ESCO Market Report 2025. International ESCO Symposium 2025. UNEP Copenhagen Climate Centre and the Global Network.

5. Ellis, J. (2010). Energy Service Companies (ESCOs) in Developing Countries. IISD’s “Bali to Copenhagen” Trade and Climate Change Project.

6. Lee, Y. H. (2020). Energy Service Company. Trong S. Kimura, P. Han & S. M. Leong (Eds.), Energy Efficiency and Conservation Master Plan of Cambodia (ERIA Research Project Report FY2020 no.07, pp. 7-18). ERIA.

7. Taylor, R. P., Govindarajalu, C., Levin, J., Meyer, A. S., & Ward, W. A. (2008). Financing energy efficiency: Lessons from Brazil, China, India and beyond. The World Bank.

8. VEC EA. Đánh giá năng lực các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình dịch vụ tiết kiệm năng lượng – ESCO. Https://vecea.vn/tin-tuc/t1011/danh-gia-nang-luc-cac-doanh-nghiep-hoat-dong-theo-mo-hinh-dich-vu-tiet-kiem-nang-luong--esco.html.

Ngày nhận bài: 20/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 23/6/2025; Ngày duyệt đăng: 26/6/2025