Quản lý nguồn lực tài chính đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực trong kỷ nguyên số

Từ việc phân tích thực trạng quản lý tài chính giáo dục tại Việt Nam, chỉ ra những "điểm nghẽn" cố hữu trong cơ chế phân bổ ngân sách, cấu trúc nguồn vốn và khung pháp lý cho tự chủ đại học đang cản trở việc thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bài viết đề xuất một hệ thống các giải pháp đột phá...

ThS. Nguyễn Tường Châu

Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Bài viết phân tích thực trạng quản lý tài chính giáo dục tại Việt Nam, chỉ ra những "điểm nghẽn" cố hữu trong cơ chế phân bổ ngân sách, cấu trúc nguồn vốn và khung pháp lý cho tự chủ đại học đang cản trở việc thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho kỷ nguyên số. Dựa trên phân tích thực trạng và kinh nghiệm quốc tế, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp đột phá, tập trung vào việc tái cấu trúc phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra, hoàn thiện cơ chế hợp tác công - tư (PPP) và xây dựng một hệ sinh thái tài chính linh hoạt, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động.

Từ khóa: Tự chủ đại học, phân bổ ngân sách, quan hệ đối tác công tư, phát triển nhân lực

Summary

The study analyzes the current state of financial management in Viet Nam’s education sector, highlighting long-standing bottlenecks in budget allocation mechanisms, funding structures, and the legal framework for university autonomy. These issues have hindered efforts to develop a high-quality workforce for the digital era. Based on an analysis of the current situation and international experience, the article proposes transformative solutions, focusing on restructuring budget allocation based on performance outcomes, improving the public-private partnership (PPP) framework, and developing a flexible financial ecosystem that aligns education with labor market demands

Keywords: University autonomy, budget allocation, public-private partnership, human resource development

GIỚI THIỆU

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang tái định hình sâu sắc cấu trúc kinh tế và thị trường lao động toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp bách về một nguồn nhân lực có năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng số và khả năng thích ứng cao (Nguyễn Thị Kim Anh, 2018). Đối với Việt Nam, việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức là một yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong bối cảnh đó, hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH) và giáo dục nghề nghiệp (GDNN), được xác định là yếu tố quyết định để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, để thực hiện sứ mệnh này, hệ thống giáo dục cần một đòn bẩy tài chính đủ mạnh và cơ chế quản lý hiệu quả. Bài viết này sẽ đưa ra chứng cứ, lập luận để làm rõ: cải cách toàn diện công tác quản lý tài chính cho giáo dục là điều kiện tiên quyết để Việt Nam đào tạo thành công thế hệ nhân lực cho kỷ nguyên số.

BỐI CẢNH VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC

CMCN 4.0 với các công nghệ cốt lõi như trí tuệ nhân tạo (AI) và kỹ thuật robot (Robotics), đang tạo ra một quá trình "phá hủy sáng tạo" trên thị trường lao động, nơi các công việc lặp lại sẽ dần bị thay thế bởi tự động hóa (Nguyễn Thị Kim Anh, 2018). Tại Việt Nam, sự khan hiếm nhân lực trong các lĩnh vực AI, internet vạn vật (IoT) đang được thể hiện qua các mức lương rất cao (OCD, 2024). Điều này đòi hỏi sự chuyển dịch căn bản sang mô hình lao động "tận dụng tối đa tri thức và công nghệ", với nhu cầu cấp thiết về các kỹ năng phức hợp như tư duy hệ thống, sáng tạo và giải quyết vấn đề (Bùi Minh Quỳnh, 2024).

Thực tế này đặt ra thách thức lớn cho hệ thống giáo dục Việt Nam vốn còn tồn tại tình trạng "đổi mới phương pháp dạy và học còn chậm; hạ tầng công nghệ thông tin còn lạc hậu" (Bùi Minh Quỳnh, 2024). Từ góc độ kinh tế học, chi tiêu cho giáo dục là một khoản đầu tư chiến lược vào vốn con người, mang lại lợi ích lâu dài cho tăng trưởng kinh tế (Sianesi & Van Reenen, 2003). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tăng tỷ lệ nhập học có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP bình quân đầu người từ 1% đến 3% (Nguyễn Tuấn Sơn, 2025). Báo cáo năm 2022 của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng khẳng định giáo dục sau phổ thông là "chìa khóa" để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển dài hạn. Do đó, việc đầu tư hiệu quả vào giáo dục không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn giúp giảm thất nghiệp và bất bình đẳng (Nguyễn Tuấn Sơn, 2025).

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM

Những điểm nghẽn

Khoảng cách giữa chính sách và thực thi

Cam kết chính sách của Việt Nam về việc chi tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục đã được khẳng định trong Luật Giáo dục. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mục tiêu này chưa bao giờ đạt được. Dữ liệu thống kê giai đoạn 2020-2024 cho thấy tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục chỉ dao động trong khoảng 13.8% đến 17.52%, với dự toán năm 2024 là 14.44% (Kim Minh Châu, 2024; Nguyễn Lê, 2024). Sự thiếu nhất quán kéo dài này làm suy giảm hiệu lực chính sách và gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

Bảng 1: Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo: Thực tế và Mục tiêu

Năm

Tổng chi cho GD&ĐT

(tỷ đồng)

Tỷ lệ trên tổng chi NSNN (%)

Mục tiêu theo chính sách (%)

2020

(Quyết toán)

241,927

14.15

20

2021

(Quyết toán)

299,325

17.52

20

2022

(Quyết toán)

275,709

15.45

20

2023 (Dự toán)

286,700

13.80

20

2024 (Dự toán)

306,128

14.44

20

Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu Kim Minh Châu, 2024; Nguyễn Lê, 2024

Hình 1: Tổng chi cho giáo dục đào tạo và tỷ lệ trên tổng chi ngân sách nhà nước (2020-2024)

Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu Kim Minh Châu, 2024; Nguyễn Lê, 2024

Cơ cấu nguồn vốn và sự phụ thuộc vào học phí

Nguồn tài chính cho giáo dục về lý thuyết đến từ nhiều kênh, bao gồm NSNN, học phí, nghiên cứu khoa học và các nguồn hợp pháp khác (Luật Giáo dục, 2019). Tuy nhiên, thực tế tại các cơ sở GDĐH cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng. Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ ra rằng tiềm lực tài chính của phần lớn các trường còn yếu, với nguồn thu phụ thuộc áp đảo vào học phí (chiếm 77%), trong khi thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ chỉ chiếm 5% (Minh Giảng, 2024). Sự phụ thuộc này không chỉ gây áp lực lên người học mà còn khuyến khích các trường ưu tiên các ngành "thị trường" thay vì các ngành khoa học- công nghệ chiến lược.

"Điểm nghẽn" trong cơ chế phân bổ ngân sách và tự chủ đại học

Một trong những "điểm nghẽn" nghiêm trọng nhất là cơ chế phân bổ NSNN vẫn dựa trên các định mức đầu vào (input-based) như số lượng học sinh và biên chế, thay vì chất lượng đầu ra (Thùy Lê, 2020). Cơ chế "cào bằng" này mang tính dàn trải, không gắn với chất lượng đào tạo hay nhu cầu thị trường và không tạo động lực cạnh tranh để đổi mới. Đặc biệt, mức chi cho GDĐH từ NSNN rất thấp, chỉ khoảng 0.18%-0.27% GDP, không đủ để tạo ra sự bứt phá (Hồng Hạnh, 2023).

Trong bối cảnh đó, chính sách tự chủ đại học (TCĐH) đối mặt với một mâu thuẫn cốt lõi, có thể gọi là "cái bẫy tự chủ không nguồn lực". Các trường được thúc đẩy tự chủ nhưng lại không được cung cấp đủ nguồn lực tài chính hoặc sự linh hoạt cần thiết (Vũ Tiễn Dũng, 2022). Hệ quả là khái niệm "tự chủ" bị biến tướng thành "tự lo", buộc các trường phải tối đa hóa nguồn thu từ học phí, làm chệch hướng các mục tiêu chiến lược về chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM

Kinh nghiệm quốc tế

Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang áp dụng các mô hình giáo dục phổ biến sau: Mô hình tài trợ công hoàn toàn như ở Phần Lan và Đức, coi giáo dục là hàng hóa công cộng thiết yếu, với ngân sách lớn dành cho giáo dục miễn phí (Nguyễn Thị Thu Hòa & Vũ Thị Loan, 2020). Ngược lại, Singapore áp dụng mô hình đối tác công - tư (PPP) , nơi chính phủ đầu tư lớn qua các khoản trợ cấp học phí, đồng thời trao quyền tự chủ cao cho các trường để huy động nguồn lực tư nhân (INEC, n.d.). Mô hình xã hội hóa cao như ở Hàn Quốc lại chia sẻ gánh nặng tài chính cho xã hội, với vai trò của chính phủ tập trung vào định hướng chiến lược và đảm bảo chất lượng (Hồng Hạnh, 2023).

Để khắc phục sự kém hiệu quả của cơ chế hiện tại, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quốc tế về việc chuyển đổi sang phân bổ ngân sách dựa trên kết quả đầu ra (Performance-Based Funding - PBF). Đây là giải pháp chiến lược để tăng hiệu quả và tạo động lực đổi mới, với các mô hình phổ biến như cấp ngân sách theo công thức đầu ra, hợp đồng chất lượng, hoặc quỹ cạnh tranh (Boer và cộng sự, 2015; Tạp chí Tài chính, 2019).

PPP là công cụ tiềm năng để huy động nguồn lực xã hội nhưng việc triển khai tại Việt Nam còn vô cùng hạn chế (Equest, 2023). Nguyên nhân chính đến từ các rào cản về pháp lý và thể chế. Khung pháp lý còn sơ sài, thiếu đồng bộ và mâu thuẫn với các luật chuyên ngành, trong khi ngành Giáo dục thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết về lợi nhuận, chia sẻ rủi ro, khiến nhà đầu tư tư nhân không có cơ sở pháp lý an toàn để triển khai (Kim Minh Châu, 2023). Bài học từ Singapore cho thấy, để PPP thành công, nhà nước phải đóng vai trò là "nhà đầu tư mồi" và "người kiến tạo luật chơi" minh bạch, hấp dẫn.

Kiến nghị

Tái cấu trúc cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra

Từ thực tế phát triển của nền giáo dục Việt Nam, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, Viêt Nam cần dịch chuyển cơ chế phân bổ NSNN từ dựa trên đầu vào sang dựa trên kết quả đầu ra (PBF) và tăng cường đặt hàng đào tạo. Lộ trình này có thể bắt đầu bằng việc thí điểm các quỹ cạnh tranh và hợp đồng chất lượng, trước khi áp dụng rộng rãi một công thức phân bổ PBF dựa trên bộ tiêu chí quốc gia. Các tiêu chí này cần bao quát chất lượng đào tạo, tác động thị trường, kết quả nghiên cứu và mức độ hội nhập quốc tế.

Bảng 2: Khung tiêu chí tham khảo cho phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra tại Việt Nam

Nhóm tiêu chí

Các chỉ số gợi ý

1. Chất lượng đào tạo &

tác động thị trường

- Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành sau 12 tháng.

- Mức lương khởi điểm trung bình của sinh viên tốt nghiệp.

- Mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với chất lượng sinh viên.

2. Kết quả nghiên cứu &

đổi mới sáng tạo

- Số lượng bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín (Scopus/ISI).

- Doanh thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ và dịch vụ khoa học kỹ thuật.

3. Phục vụ cộng đồng &

hội nhập Quốc tế

- Tỷ lệ sinh viên quốc tế theo học.

- Số lượng chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng quốc tế.

- Tỷ lệ sinh viên thuộc diện chính sách được hỗ trợ.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2: Số lượng chỉ số gợi ý theo nhóm tiêu chí

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hoàn thiện khung pháp lý cho tự chủ và đa dạng hóa nguồn thu

Để tháo gỡ "cái bẫy tự chủ không nguồn lực", cần cải cách pháp lý mạnh mẽ. Cần cho phép các trường tự chủ xác định học phí dựa trên chất lượng đã được kiểm định, nhưng phải đi kèm với một hệ thống học bổng và tín dụng sinh viên đủ mạnh (Luật Giáo dục, 2019). Đồng thời, cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc triển khai Luật PPP trong giáo dục, làm rõ các vấn đề về quyền sở hữu, lợi nhuận và ưu đãi đầu tư để tạo hành lang pháp lý an toàn cho khu vực tư nhân (Kim Minh Châu, 2023).

Xây dựng hệ sinh thái tài chính gắn kết đào tạo với thị trường

Cần tạo ra một hệ sinh thái tài chính rộng lớn hơn, bao gồm việc thành lập Quỹ Phát triển Nguồn nhân lực Chiến lược do Nhà nước và doanh nghiệp đồng tài trợ. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi thuế mạnh mẽ hơn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục. Các cơ sở giáo dục phải nâng cao năng lực quản trị tài chính nội bộ, thực hiện kiểm toán độc lập và công khai minh bạch thu chi để xây dựng lòng tin với xã hội (Tạp chí Tài chính, 2019).

KẾT LUẬN

Thực trạng quản lý tài chính giáo dục tại Việt Nam đang bộc lộ những mâu thuẫn giữa mục tiêu chiến lược và thực thi chính sách; giữa yêu cầu tự chủ và sự thiếu hụt nguồn lực. Những điểm nghẽn này đang trực tiếp cản trở nỗ lực đào tạo một thế hệ nhân lực đủ năng lực cho kỷ nguyên số. Tuy nhiên, việc cải cách đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện về tư duy và phương thức quản lý: chuyển từ cấp phát hành chính sang đầu tư chiến lược có điều kiện; chuyển từ cơ chế khép kín sang một hệ sinh thái mở với sự tham gia của khu vực tư nhân và chuyển từ phụ thuộc vào học phí sang đa dạng hóa nguồn thu bền vững. Đầu tư thông minh và hiệu quả cho giáo dục chính là đầu tư vào tương lai thịnh vượng của quốc gia, giúp Việt Nam thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tài liệu tham khảo:

1. Boer, H. de, Jongbloed, B., Benneworth, P., Cremonini, L., Kolster, R., Kottmann, A., Lemmens-Krug, K., & Vossensteyn, H. (2015). Performance-based funding and performance agreements in fourteen higher education systems. Center for Higher Education Policy Studies (CHEPS).

2. Bùi Minh Quỳnh (2024). Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tới đào tạo nguồn nhân lực. https://eba.htu.edu.vn/tin-t%E1%BB%A9c/433-t%C3%A1c-%C4%91%E1%BB%99ng-c%E1%BB%A7a-c%C3%A1ch-m%E1%BA%A1ng-c%C3%B4ng-nghi%E1%BB%87p-4-0-t%E1%BB%9Bi-%C4%91%C3%A0o-t%E1%BA%A1o-ngu%E1%BB%93n-nh%C3%A2n-l%E1%BB%B1c

3. Hồng Hạnh (2023). Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học mỗi năm đạt 0,18% GDP, không có đà cho khoa học bứt phá, Báo Đại biểu Nhân dân. https://daibieunhandan.vn/ngan-sach-nha-nuoc-chi-cho-giao-duc-dai-hoc-moi-nam-dat-0-18-gdp-khong-co-da-cho-khoa-hoc-but-pha-10325609.html

4. INEC. Đại học công lập Singapore: Khác biệt giữa các trường NUS, NTU, SMU, SUTD, SIT, SUSS. https://duhocinec.com/dai-hoc-cong-lap-singapore-khac-biet-giua-cac-truong-nus-ntu-smu-sutd-sit-suss/

5. Kim Minh Châu (2023). Hợp tác công-tư trong giáo dục đại học: Không thiếu nhà đầu tư, chỉ thiếu cơ chế, Giáo dục Việt Nam. https://giaoduc.net.vn/hop-tac-cong-tu-trong-giao-duc-dai-hoc-khong-thieu-nha-dau-tu-chi-thieu-co-che-post239961.gd

6. Minh Giảng (2024). Tài chính là điểm nghẽn lớn nhất trong phát triển giáo dục đại học, Báo Tuổi Trẻ. https://tuoitre.vn/tai-chinh-la-diem-nghen-lon-nhat-trong-phat-trien-giao-duc-dai-hoc-20241221105025782.htm

7. Nguyễn Lê (2024). Ngân sách nhà nước chi 306.128 tỷ đồng cho giáo dục, đào tạo, Báo Đầu tư. https://baodautu.vn/ngan-sach-nha-nuoc-chi-306128-ty-dong-cho-giao-duc-dao-tao-d227333.html

8. Nguyễn Thị Kim Anh (2018). Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc làm, Tạp chí Cộng sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/52474/view_content

9. Nguyễn Thị Thu Hòa & Vũ Thị Loan (2020). Giáo dục ở Phần Lan và những gợi mở cho cải cách giáo dục ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/02/24/giao-duc-o-phan-lan-va-nhung-goi-mo-cho-cai-cach-giao-duc-o-viet-nam/

10. Nguyễn Tuấn Sơn (2025). Tác động của đầu tư công trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo tới phát triển kinh tế - xã hội, Tạp chí Tài chính. https://tapchitaichinh.vn/tac-dong-cua-dau-tu-cong-trong-linh-vuc-giao-duc-dao-tao-toi-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html

11. OCD (2024). Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. https://ocd.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-viet-nam/

12. Quốc hội (2019). Luật Giáo dục số 43/2019/QH14.

13. Sianesi, B., & Van Reenen, J. (2003). The returns to education: Macroeconomics. Journal of Economic Surveys, 17(2), 157-200.

14. Tạp chí Tài chính (2019). Kinh nghiệm quốc tế về cấp ngân sách theo chất lượng đầu ra cho cơ sở giáo dục đại học công lập. https://tapchitaichinh.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-cap-ngan-sach-theo-chat-luong-dau-ra-cho-co-so-giao-duc-dai-hoc-cong-lap.html

15. Thùy Lê (2020). Phân bổ ngân sách cho giáo dục: Đổi mới cơ chế để đảm bảo tính công bằng, Báo Kiểm toán. http://baokiemtoan.vn/phan-bo-ngan-sach-cho-giao-duc-doi-moi-co-che-de-dam-bao-tinh-cong-bang-4842.html

16. Vũ Tiễn Dũng. (2022). Tự chủ đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Nxb Khoa học xã hội.

Ngày nhận bài: 15/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 28/7/2025; Ngày duyệt đăng: 29/7/2025