Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển TP. Hồ Chí Minh

Trên cơ sở phân tích thực trạng, nhất là những thách thức trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất một số giải pháp liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực này.

ThS. Trần Thị Yến Thanh

Sở Nội vụ TP. Hồ Chí Minh

Email: thanhkt06@gmail.com

Tóm tắt

Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên cấp bách. Trên cơ sở phân tích thực trạng, nhất là những thách thức trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất một số giải pháp liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực này, nhằm giúp Thành phố phát triển nhanh, mạnh và bền vững trong kỷ nguyên mới.

Từ khóa: Nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo, bồi dưỡng, TP. Hồ Chí Minh

Summary

High-quality human resources are not only the core force of the economy but also play a pivotal role in promoting industrialization, modernization, and international integration. In the context of globalization and the rapidly advancing Fourth Industrial Revolution, the training and development of high-quality human resources have become increasingly urgent. Based on an analysis of the current state and challenges in developing high-quality human resources in Ho Chi Minh City, the author proposes several solutions related to training, capacity building, attracting, and effectively utilizing this resource, aiming to help the city develop rapidly, robustly, and sustainably in the new era.

Keywords: High-quality human resources, training, capacity building, Ho Chi Minh City

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác định nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ nhận thức đó, các chính sách thu hút, đào tạo và sử dụng nhân lực chất lượng cao trên nhiều lĩnh vực đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Sự đồng bộ giữa chính sách của Đảng, khung pháp lý của Nhà nước và những nỗ lực cụ thể từ các bộ, ngành, địa phương đã góp phần hình thành một hệ thống phát triển nguồn nhân lực có tính toàn diện, từ khâu đào tạo, bồi dưỡng đến thu hút và sử dụng hiệu quả. Nhờ đó, công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước.

Đối với TP. Hồ Chí Minh - đầu tàu kinh tế, trung tâm khoa học và công nghệ hàng đầu của cả nước, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn được quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, công tác đào tạo, thu hút và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động có năng lực, tư duy đổi mới sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao, tạo cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, mạnh và bền vững càng trở nên cấp thiết. Đây chính là yếu tố then chốt giúp Thành phố khẳng định vai trò trung tâm kinh tế, khoa học và công nghệ hàng đầu của cả nước trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở TP. HỒ CHÍ MINH

Về quy mô và trình độ nguồn nhân lực

TP. Hồ Chí Minh hiện là địa phương có dân số đông, lực lượng lao động lớn, có chất lượng cao nhất cả nước (quy mô dân số trên 9,3 triệu người, trong đó hơn 4,9 triệu người trong độ tuổi lao động). Phần lớn lao động tại Thành phố là lao động nhập cư, chủ yếu trong độ tuổi từ 20-35, tạo nên một lực lượng trẻ, năng động và dễ thích ứng với yêu cầu thị trường. Theo thống kê, đến quý I/2024, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của Thành phố đạt 87,3%, dẫn đầu cả nước; trong đó trình độ đại học chiếm 87%, cao đẳng chiếm 7% và trung cấp là 6%. Cùng với đó, năng suất lao động của Thành phố cao gấp 1,7 lần mức trung bình cả nước. Những con số này là kết quả từ việc Thành phố đã phát huy vai trò trung tâm giáo dục, đào tạo; đồng thời nâng cao đầu tư phát triển công nghệ, năng lực quản lý, xây dựng môi trường làm việc hiện đại...

Về chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao

Nhận thức rõ vai trò chiến lược của nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, TP. Hồ Chí Minh đã sớm triển khai nhiều chính sách nhằm thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ năm 2021, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Đề án 01-ĐA/TU về hỗ trợ, phát triển tài năng trẻ và lãnh đạo tương lai của Thành phố giai đoạn 2020-2035. Đề án đã xác định những nhiệm vụ, giải pháp nhằm hỗ trợ, phát triển tài năng trẻ phát huy tốt năng lực riêng của từng người; thực hiện chính sách để thu hút, tạo nguồn cán bộ trẻ; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân trẻ để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ cho hệ thống chính trị TP. Hồ Chí Minh...

Qua 2 năm thực hiện Đề án, theo Kết luận số 558-KL/TU ngày 24/4/2023 của Ban Thường vụ Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị luôn quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trên cơ sở đề án vị trí việc làm, căn cứ yêu cầu nhiệm vụ tuyển dụng cán bộ đảm bảo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định, các cơ quan, đơn vị thường xuyên chỉ đạo rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt, làm cơ sở thực hiện công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ. Quan tâm tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, cán bộ trong nguồn quy hoạch tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, lý luận chính trị; tập trung rà soát, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy trình, công tác quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ triển vọng thuộc diện quy hoạch trong hệ thống chính trị TP. Hồ Chí Minh phù hợp tình hình hiện nay, góp phần bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thành phố…

Cùng với đó, chính sách ưu đãi về thu nhập cho chuyên gia, nhà khoa học và người có tài năng đặc biệt cũng đã được Thành phố thực hiện với mức cao hơn nhiều lần so với tiền lương bình quân của công chức, viên chức.

Về giáo dục và đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Giáo dục và đào tạo đóng vai trò then chốt trong việc hình thành và nâng tầm nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh. Với mạng lưới hơn 100 trường đại học, cao đẳng, trong đó có nhiều trường đại học trọng điểm quốc gia, như: Đại học Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học Kinh tế, Đại học Bách khoa, Đại học Y dược... cùng nhiều viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo nghề và cơ sở giáo dục tư thục, Thành phố là trung tâm đào tạo lớn nhất cả nước, cung cấp hàng trăm nghìn lao động có trình độ chuyên môn mỗi năm.

Đặc biệt, từ tháng 7/2021, UBND Thành phố đã phê duyệt Đề án tổng thể đào tạo nhân lực trình độ quốc tế và đại học chia sẻ nhằm hướng đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và tăng cường sự kết nối, chia sẻ nguồn lực giữa về con người, cơ sở vật chất và học liệu giữa các trường đại học trên địa bàn. Trong đó, Đề án đặt mục tiêu đào tạo nhân lực chất lượng cao bậc đại học và sau đại học có trình độ quốc tế đối với 8 ngành: Công nghệ thông tin - Truyền thông; Cơ khí - Tự động hóa; Trí tuệ nhân tạo; Quản trị doanh nghiệp; Tài chính - Ngân hàng; Y tế; Du lịch và Quản lý đô thị trong giai đoạn 2020-2035 và giao các trường đại học liên quan thực hiện. Tính đến cuối năm 2024, 4 đề án đã được nghiệm thu và tổng kết, gồm: Đề án đào tạo ngành Công nghệ thông tin - Truyền thông; ngành Trí tuệ nhân tạo; ngành Tài chính - Ngân hàng và ngành Quản lý đô thị.

TỒN TẠI, HẠN CHẾ

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh hiện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.

Cụ thể, việc triển khai các cơ chế, chính sách phát triển nhân lực chất lượng cao vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập và hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng. Cụ thể như thực hiện Đề án 01-ĐA/TU, trong giai đoạn 2019-2023 mới chỉ thu hút được 10 chuyên gia, nhà khoa học làm việc tại các khu công nghệ cao, trong đó mới ký hợp đồng với 8 người; chưa có trường hợp sinh viên xuất sắc hay cán bộ khoa học trẻ nào được tuyển dụng theo cơ chế đặc thù. Nguyên nhân chính đến từ việc chính sách chưa đủ linh hoạt và cạnh tranh, thiếu cơ chế đột phá về tiền lương, thưởng, môi trường làm việc, phát triển nghề nghiệp và tự chủ chuyên môn. Nhiều quy trình tuyển dụng, đánh giá nhân sự còn mang tính hành chính, thiếu định hướng thị trường, khiến TP. Hồ Chí Minh khó cạnh tranh với khu vực tư nhân trong việc thu hút và giữ chân người tài. Bên cạnh đó, việc phân cấp quản lý, phối hợp giữa các sở, ban, ngành liên quan đến phát triển nhân lực còn rời rạc, chưa tạo thành một hệ sinh thái thống nhất.

Về đào tạo, mặc dù TP. Hồ Chí Minh có nhiều trường đại học, cao đẳng và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và có sự quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng, nhưng khoảng cách giữa chất lượng đào tạo và nhu cầu thực tế của thị trường lao động vẫn còn đáng kể, nhất là khi thị trường lao động luôn có sự biến động. Ngoài ra, khoảng cách giữa kỹ năng học tập và kỹ năng thực tiễn khiến một bộ phận lao động dù có bằng cấp vẫn khó tiếp cận công việc chất lượng cao.

Trên thực tế, nguồn nhân lực khu vực công tại TP. Hồ Chí Minh hiện có hơn 122.000 cán bộ, công chức, viên chức được phân bổ đều ở cấp thành phố, quận huyện và phường xã. Mặc dù tỷ lệ người có trình độ đại học và trên đại học khá cao, đặc biệt ở cấp thành phố và quận huyện, nhưng đội ngũ nhân lực chất lượng cao thực sự - những người có năng lực đổi mới, sáng tạo và dẫn dắt các lĩnh vực trọng điểm - vẫn còn thiếu. Bên cạnh đó, tình trạng nghỉ việc ở khu vực công đang diễn ra mạnh với hơn 2.200 người nghỉ chỉ trong vòng 10 tháng (từ 7/2022 đến 4/2023), chủ yếu do chế độ đãi ngộ, áp lực công việc và cơ hội thăng tiến không tương xứng. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải cải cách chính sách nhân sự, đặc biệt là trong tuyển dụng, đào tạo, đánh giá và giữ chân nhân tài trong bộ máy hành chính nhà nước.

Mặc dù TP. Hồ Chí Minh được đánh giá là địa phương dẫn đầu cả nước về chất lượng nguồn nhân lực, nhưng Thành phố vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trình độ chung của lực lượng lao động tuy cao nhưng còn thiếu nhóm nhân lực tinh hoa - những người có khả năng tư duy chiến lược, sáng tạo đột phá và vươn tầm khu vực. Đội ngũ trí thức tuy đông nhưng chưa thực sự mạnh về chiều sâu nghiên cứu và hội nhập quốc tế.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Trên cơ sở thực trạng hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh trong kỷ nguyên mới. Cụ thể:

Một là, về chương trình đào tạo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cần chú trọng đến việc đổi mới phương pháp, hình thức đào tạo và xây dựng các chương trình sát với yêu cầu thực tế, giúp nguồn nhân lực không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phát huy khả năng sáng tạo và linh hoạt trong công việc. Trong đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của TP. Hồ Chí Minh trong kỷ nguyên mới, việc xây dựng các chương trình, đề án đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức phải được thực hiện một cách cụ thể, phù hợp với đặc thù của Thành phố. Các chương trình này cần được thiết kế dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo chuyên ngành. Cần triển khai cơ chế đặc thù, gắn với tình hình thực tế và yêu cầu của kỷ nguyên mới, để đào tạo những cán bộ có năng lực, tư duy sáng tạo và khả năng đổi mới trong công việc.

Cùng với đó, giáo dục đại học và dạy nghề cần đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp giảng dạy, hướng đến mô hình đào tạo gắn liền với thực tiễn, lấy người học làm trung tâm và phát triển toàn diện năng lực tư duy - kỹ năng - đạo đức nghề nghiệp. Thành phố cũng cần tập trung đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, đặc biệt ở các lĩnh vực công nghệ cao, chuyển đổi số, tự động hóa, y sinh và logistics. Việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm khởi nghiệp trong các trường đại học là bước đi quan trọng để kết nối đào tạo với hệ sinh thái doanh nghiệp, từ đó hình thành một lực lượng lao động không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có tư duy sáng tạo và khả năng thích nghi linh hoạt với các xu thế mới của thị trường lao động toàn cầu.

Hai là, nâng cao sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại TP. Hồ Chí Minh, việc thực hiện tốt sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo, đơn vị quản lý và đơn vị sử dụng nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết. Trong quá trình đào tạo, cần hình thành các tiêu chí và yêu cầu rõ ràng của đơn vị sử dụng nguồn nhân lực, giúp định hướng mục tiêu và chất lượng của chương trình đào tạo. Các cơ sở đào tạo có thể điều chỉnh nội dung và phương thức giảng dạy phù hợp với yêu cầu thực tế của Thành phố. Đồng thời, cần tạo ra một môi trường thuận lợi nhất cho cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình đào tạo, đảm bảo họ có điều kiện học tập và phát triển tối đa năng lực. Bên cạnh đó, các tiêu chí đào tạo này sẽ làm cơ sở cho công tác đánh giá, bố trí, sử dụng và đề bạt nhân sự, giúp đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong việc phân công nhiệm vụ.

Ba là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực về khoa học công nghệ, chuyển đổi số. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiệu quả, cần thực hiện rà soát và sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ, đồng thời chuyển đổi số gắn liền với đổi mới toàn diện chính sách phát triển nguồn nhân lực. Việc này đòi hỏi phải chú trọng đến các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng đội ngũ cán bộ giỏi khoa học và công nghệ, đặc biệt là chuyên gia đầu ngành và nhân tài trong lĩnh vực này. Một trong những yếu tố quan trọng là thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, đảm bảo người lao động được khuyến khích phát huy tối đa năng lực. Cần tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường, huy động hợp lý các nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân. Ngoài ra, cần hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu phát triển, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhằm bắt kịp xu hướng và yêu cầu của kỷ nguyên mới.

Bốn là, xây dựng cơ chế và chính sách đào tạo. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị, việc xây dựng cơ chế và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là vô cùng quan trọng. Những chính sách này cần gắn liền với việc bố trí, sử dụng và phát huy năng lực của mỗi cá nhân theo vị trí việc làm cụ thể. Điều đó không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn nhân lực mà còn tạo động lực phát triển nghề nghiệp bền vững cho cán bộ, công chức, viên chức. Cần có cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Những yếu tố này sẽ giúp nâng cao trách nhiệm và tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng công việc và mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác quản lý phát triển nguồn nhân lực cần được đổi mới và hoàn thiện. Cần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý, đặc biệt chú trọng vào quản lý môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm... Chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như phát triển và giữ chân nhân tài là yếu tố then chốt để đạt được sự bứt phá trong phát triển hệ thống chính trị.

Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đây là giải pháp cần thiết giúp Thành phố nhanh chóng xây dựng đội ngũ nhân lực cho các ngành công nghệ lõi của nền kinh tế số. Hợp tác quốc tế sẽ mang lại cơ hội cho các cơ sở đào tạo trong nước tiếp cận với các chương trình đào tạo nghề theo chuẩn quốc tế, giúp cải thiện chất lượng giảng dạy và đào tạo. Thông qua việc học hỏi kinh nghiệm từ các nền giáo dục hiện đại, các cơ sở đào tạo có thể cải tiến phương pháp giảng dạy, chương trình học và cơ sở vật chất, từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động toàn cầu. Hợp tác quốc tế cũng tạo cơ hội để thu hút đầu tư quốc tế về giáo dục, hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành đạt chuẩn quốc tế, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo. Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn mở ra cơ hội cho người học tiếp cận các chương trình đào tạo chất lượng với chi phí hợp lý, đồng thời giúp họ dễ dàng tìm kiếm cơ hội việc làm rộng mở hơn trong môi trường toàn cầu hóa. Đây là cơ hội quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Thành phố.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề đặc biệt quan trọng. Dù đã có sự quan tâm, nhưng việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. Hồ Chí Minh vẫn còn những hạn chế nhất định. Trên cơ sở phân tích rõ thực trạng, bài viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác này, góp phần giúp Thành phố sẵn sàng nguồn lực cho sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững trong kỷ nguyên mới.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

2. Ban Chấp hành Trung ương. (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

3. Ban Chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

4. Ban Thường vụ Thành ủy TP. Hồ Chí Minh (2023). Kết luận số 558-KL/TU ngày 24/4/2023 về đẩy mạnh thực hiện Đề án 01-ĐA/TU ngày 5/2/2021 của Ban Thường vụ Thành ủy về hỗ trợ, phát triển về hỗ trợ, phát triển tài năng trẻ và lãnh đạo tương lai của Thành phố giai đoạn 2020-2035.

5. Bộ Chính trị (2021). Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

6. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 30/12/2022 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

9. Quốc hội (2023). Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài: 28/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 03/6/2025; Ngày duyệt đăng: 05/6/2025