Ths. Đỗ Văn Hòa
UBND phường Phước Trung, TP. Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tóm tắt
Với lợi thế có đường bờ biển dài, hệ sinh thái biển đa dạng, trữ lượng dầu khí lớn nhất cả nước, cảng nước sâu và vị trí chiến lược trong vùng Đông Nam Bộ, Bà Rịa - Vũng Tàu được đánh giá là địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả và bền vững tiềm năng này, thì việc nâng cao nhận thức và năng lực cho các chủ thể trên địa bàn về phát triển kinh tế biển có vai trò then chốt. Bài viết này sẽ đánh giá thực trạng nhận thức về phát triển kinh tế biển tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, từ đó đề xuất một số giải pháp cho thời gian tới.
Từ khóa: Kinh tế biển, nhận thức, Bà Rịa - Vũng Tàu, phát triển bền vững
Summary
With the advantage of a long coastline, diverse marine ecosystems, the country's largest oil and gas reserves, deep-water ports, and a strategic location in the Southeast region, Ba Ria - Vung Tau is considered a locality with great potential for developing the marine economy. However, to effectively and sustainably exploit this potential, raising awareness and capacity among local stakeholders regarding marine economic development plays a key role. This paper evaluates the current state of awareness about marine economic development in Ba Ria – Vung Tau province and proposes several solutions for the future.
Keywords: Marine economy, awareness, Ba Ria - Vung Tau, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết số 05/NQ-HĐND ngày 31/5/2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy hoạch tỉnh BR - VT) thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu: BR - VT trở thành trung tâm kinh tế biển quốc gia, đạt các tiêu chí quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành và phát triển các ngành kinh tế biển chủ lực đạt tiêu chuẩn quốc tế, gồm: du lịch biển đảo; kinh tế hàng hải (cảng biển, logistics, các dịch vụ vận tải biển); khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; công nghiệp ven biển; nuôi trồng và khai thác hải sản; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Đồng thời, chú trọng bảo vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Theo đó, phấn đấu đến năm 2030 tỷ trọng các ngành kinh tế biển trong GRDP của tỉnh (không kể dầu khí) đạt khoảng 60%, trong đó, các ngành kinh tế thuần biển khoảng 20%. Để đạt được những mục tiêu này, rất cần nhận diện rõ những hạn chế yếu kém để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp giúp BR-VT phát triển kinh tế biển một cách bền vững.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỂN Ở BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Qua khảo sát thực tiễn cho thấy, BR - VT có dải bờ biển kéo dài trên 305 km. Vùng biển BR - VT nằm trên đường hàng hải quốc tế; có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về ngành nghề, đặc biệt là trữ lượng dầu mỏ lớn nhất cả nước; khai thác, chế biến hải sản, du lịch biển – đảo, phát triển công nghiệp ven biển; có hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải thuộc nhóm cảng có tốc độ tăng trưởng cao và nhanh trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời là cụm cảng có các chuyến tàu mẹ trực tiếp đi châu Âu, châu Mỹ, xếp vào nhóm 50 cảng biển có sản lượng khai thác container cao nhất thế giới.
Để phát huy ưu thế từ tài nguyên biển, thời gian qua, bên cạnh việc xây dựng các trung tâm dịch vụ logistic, phát triển mạnh hệ thống cảng, cấp ủy, chính quyền tỉnh BR - VT đã tập trung xây dựng quy hoạch, chương trình, kế hoạch khai thác thế mạnh về kinh tế biển, trước hết chú trọng những ngành, lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng như: giao thông, điện, nước, dịch vụ tài chính, tín dụng, y tế, giáo dục; đầu tư chiều sâu vào những ngành mũi nhọn như khai thác khoáng sản, phát triển dịch vụ công nghiệp, dịch vụ dầu khí; dịch vụ cảng biển và dịch vụ logistics, phát triển du lịch và dịch vụ du lịch; dịch vụ hậu cần thủy sản… Với định hướng đúng đắn và triển khai thực hiện một cách quyết liệt, tỉnh BR - VT đã từng bước định hình được mô hình phát triển kinh tế, xã hội trên cơ sở phát huy những lợi thế tự nhiên về biển, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn nội lực và chủ động, tích cực hội nhập để phát triển nhanh và bền vững, có cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp và dịch vụ hợp lý, vươn lên trở thành tỉnh có nhiều lợi thế thúc đẩy phát triển kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ.
Mặc dù có nhiều lợi thế nổi bật, song việc phát triển kinh tế biển ở BR - VT vẫn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức, như: vẫn lúng túng trong việc chuyển các cơ sở chế biến thủy, hải sản gây ô nhiễm môi trường ra khỏi trung tâm thành phố Vũng Tàu, xa các điểm du lịch biển hấp dẫn... Ðây là một trong những nguyên nhân khiến du lịch ở BR - VT dù rất nổi tiếng, vẫn chưa thật sự hấp dẫn du khác gần, xa. Cùng đó, do thiếu những sản phẩm du lịch đặc sắc, mang dấu ấn địa phương, từ lâu du lịch BR - VT vẫn được xem là du lịch bình dân, với ý nghĩa giản đơn là đến chỉ để tắm biển. Điều này cho thấy, dù lượng khách du lịch đến BR - VT hằng năm tương đối lớn, nhưng nguồn thu từ du lịch của địa phương còn hạn chế.
Không chỉ có vậy, hàng loạt các bãi tắm đẹp, nổi tiếng của BR - VT đang bị băm nát bởi các công trình xây dựng không phép lẫn có phép. Ðơn cử như tại Bãi Sau, một bãi biển đẹp nhất nhì thành phố Vũng Tàu, đã bị "rào" kín bởi các khách sạn, nhà hàng, trong đó có không ít công trình kiên cố cao tầng, lấn sát ra biển.
Ngoài ra, để đánh thức tiềm năng du lịch biển, BR - VT đã xây dựng tuyến đường ven biển (nối thành phố Vũng Tàu với các huyện Long Ðiền, Ðất Ðỏ, Xuyên Mộc và tỉnh Bình Thuận) dài hàng chục km, đi qua các làng chài, vốn nhiều đời chỉ quen nghề đánh bắt thủy, hải sản để thu hút hàng loạt các dự án du lịch lớn tìm về, trong đó có không ít dự án có số vốn đầu tư lên tới cả tỷ USD, như dự án Hồ Tràm Strip, Vườn thú hoang dã Safari Bình Châu... Nhưng, cũng chính tại đây, tình trạng "chia lô", cát cứ của nhiều doanh nghiệp đã xuất hiện.
Đối với hoạt động kinh doanh cảng biển, hệ thống cảng nước sâu tại khu vực sông Thị Vải - Cái Mép, dù thời gian qua đã đón nhiều tàu mẹ của các hãng tàu quốc tế lớn, có sức chở lên tới hơn 100 nghìn tấn, nhưng các cảng khu vực Thị Vải - Cái Mép hiện chỉ hoạt động cầm chừng, khoảng 20% công suất. Nhiều kho chứa trống rỗng, không có hàng, máy móc, trang thiết bị nằm phơi sương, thiệt hại về vật chất không nhỏ.
Những hạn chế yếu kém trong phát triển kinh tế biển của tỉnh BR - VT nêu trên có nguyên nhân quan trọng là do nhận thức của các chủ thể và nhân dân về phát triển kinh tế biển còn hạn chế; năng lực quản lý điều hành phát triển kinh tế biển của đội ngũ cán bộ các ngành, các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức và năng lực cho các chủ thể phát triển kinh tế biển, cũng như tạo sự đồng thuận trong xã hội về vị trí, vai trò của kinh tế biển đối với quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia được xác định là giải pháp có vai trò quan trọng.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHAT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TẠI BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Từ thực trạng đánh giá phát triển kinh tế biển tại BR - VT, tác giả cho rằng, BR - VT cần thực hiện một số giải pháp sau để đạt được các mục tiêu đã định.
Một là, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về phát triển kinh tế biển
Theo đó, các cấp, các ngành cần coi kinh tế biển ở BR - VT là một trong những ngành kinh tế trọng điểm, có vị trí to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Để có nhận thức đầy đủ về biển, việc cần làm trước tiên là khẩn trương hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế biển và hải đảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền về phát triển kinh tế biển và hải đảo; làm tốt công tác tuyên truyền để mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế biển và hải đảo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo sự đồng thuận về tư tưởng, nhận thức và hành động. Làm tốt công tác tuyên truyền sẽ có tác động làm thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong việc tuân thủ luật pháp, tuân thủ các cam kết trên cơ sở các hợp đồng mà họ thực hiện với các đối tác trong nước cũng như nước ngoài đến đầu tư tại tỉnh, qua đó có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống người dân.
Cùng đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục sâu rộng, có hệ thống trong nhân dân “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Trong đó, cần tập trung tuyên truyền trên nhiều kênh, nhiều hình thức như: qua đài phát thanh, truyền hình địa phương; báo BR - VT; xây dựng trang thông tin điện tử của kinh tế biển BR - VT do Ban quản lý kinh tế biển quản lý để quảng bá rộng rãi tới các nhà đầu tư, các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước, phục vụ nhu cầu cập nhật thông tin về các chính sách, cơ chế, triển vọng mới của các đối tượng đã và đang hoạt động trong kinh tế biển; tổ chức triển lãm, trưng bày; giao lưu văn nghệ; tọa đàm; tập huấn nghiệp vụ; phát động phong trào sáng tác, viết bài, đưa tin về con người, cuộc sống vùng biển, ven biển...
Mặt khác, khi các dự án đầu tư vào thì một bộ phận người dân bị mất đất sản xuất, làm thay đổi nghề nghiệp của người dân từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến thay đổi việc làm. Nếu không làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận thì mâu thuẫn này sẽ tăng lên, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư và kết quả thu hút đầu tư. Vì thế, chính quyền địa phương cần quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách, đặc biệt tại các khu đất “vàng” trong phát triển du lịch, dầu khí, hải sản hay cảng biển. Tăng cường tuyên truyền cho ngư dân, cán bộ quản lý ngành hải sản các cấp để nắm được các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, nắm chắc chiến lược biển Việt Nam, phương pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền khi có tình huống trên biển, kịp thời thông tin và cùng với các lực lượng chức năng như Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư bảo vệ chủ quyền thiêng liêng trên biển.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác hoạch định và tổ chức thực thi chính sách:
Trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế biển và hải đảo, chính quyền tỉnh BR - VT cần quan tâm hơn nữa đến sự tham gia lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, của cộng đồng doanh nghiệp và người dân; thường xuyên chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế và các địa phương khác trong tỉnh định kỳ gặp gỡ, đối thoại về luật pháp, chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh, bổ sung các chính sách, biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Tăng cường gặp gỡ giữa lãnh đạo tỉnh với doanh nghiệp để trao đổi thông tin, phát hiện những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp để có biện pháp phối hợp tháo gỡ kịp thời. Tổ chức các cuộc hội thảo để phân tích chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh, qua đó cải thiện môi trường đầu tư vào tỉnh tốt hơn, từ đó đưa ra các giải pháp để cải thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh.
Ba là, cải cách thủ tục, hành chính hướng tới mục tiêu đơn giản, gọn nhẹ, công khai, minh bạch trong hoạt động kinh tế biển nhằm nâng cao năng lực của bộ máy quản lý:
Cải cách thủ tục hành chính nhằm hướng tới mục tiêu công khai, minh bạch, thủ tục đơn giản, gọn nhẹ trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, thuế,… Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành trong việc thu hút vốn cho các ngành nghề của kinh tế biển nói riêng, nền kinh tế nói chung. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện các hành vi tiêu cực, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Xử lý kiên quyết và thay thế kịp thời đối với những cán bộ vi phạm, cán bộ có năng lực kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ.
Cũng do thủ tục hành chính có ảnh hưởng không nhỏ đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế biển nói riêng, nên trong thời gian tới cần rà soát, hoàn thiện các quy trình, các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng và thuế. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, chống quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, phiền hà; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động huy động vốn; rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm bớt đầu mối giải quyết công việc theo mô hình một cửa, một cửa liên thông. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đổi mới nội dung, phương thức vận động xúc tiến đầu tư nhằm huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định liên quan đến các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, đầu tư xây dựng, thành lập doanh nghiệp, thuế... theo hướng tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2050 trong lĩnh vực thủy sản, cảng biển, du lịch... của Tỉnh, để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Có sự phối hợp thống nhất, đồng bộ giữa các sở ngành trong quy hoạch, đảm bảo phát triển hài hòa lợi ích của các lĩnh vực, các ngành trong Tỉnh, nhằm phát huy tối đa nguồn lực, tránh sự chồng chéo, lãng phí.
Tài liệu tham khảo:
1. Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (2023). Nghị quyết 05/NQ-HĐND thông qua quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2023). Công văn số 1854/ SKHĐT-ĐTDN về báo cáo kết quả chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2023 của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
3. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2024). Kế hoạch số 91/KH-SDL về triển khai các nhiệm vụ nhằm thực hiện Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024.
Ngày nhận bài 15/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/5/2025; Ngày duyệt đăng: 23/5/2025 |