Một số giải pháp thúc đẩy phát triển ngành logistics Việt Nam

Bài viết khái quát thực trạng phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số khuyến nghị liên quan.

TS. Nguyễn Văn Lượng (Tác giả liên hệ)

Trường Trung cấp Nông nghiệp Thái Bình

Email: nguyenvanluong.cdnntb@gmail.com

Nguyễn Đức Minh Tú, Nguyễn Phương Phương

Trường Kinh tế, Đại học Bách khoa Hà Nội

Tóm tắt

Cùng với điều kiện địa lý thuận lợi, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics, khi hạ tầng giao thông đường bộ, đường không, đường biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Bài viết khái quát thực trạng phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số khuyến nghị liên quan.

Từ khóa: Logistics, giao thông, ngành dịch vụ

Summary

In addition to its favorable geographical location, Viet Nam is regarded as having substantial opportunities to promote the development of its logistics service industry, as transportation infrastructure, including road, air, and maritime networks, as well as warehousing facilities, commercial infrastructure, and logistics centers are continuously expanded on a large and nationwide scale. This article provides an overview of the current state of logistics development in Viet Nam and offers several related policy recommendations.

Keywords: Logistics, transportation, service industry

ĐẶT VẤN ĐỀ

Là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức 2 con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, nhưng ngành logistics Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, như: chi phí cao, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, mức độ kết nối giữa các phương thức vận tải còn thấp, nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn doanh nghiệp nội địa có quy mô nhỏ, thiếu năng lực cạnh tranh và chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức trên.

CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Để tận dụng các lợi thế, cơ hội và đưa logistics trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với hoạt động này.

Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định, logistics là một “ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao” và phải “hiện đại và mở rộng” dịch vụ logistics. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, nước ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt những chính sách. Điển hình như: ngày 14/2/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 200/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 15/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo, trong đó, đề ra mục tiêu từng bước giảm chi phí logistics xuống mức bằng khoảng 18% GDP; cải thiện Xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) thêm 10 bậc (hiện xếp thứ 64/160)... Ngày 18/7/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới và khu vực; Khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới...

Đến ngày 22/2/2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 221/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 30/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, để góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, giảm chi phí logistics đáp ứng được với sự vận hành của nền kinh tế trong giai đoạn mới, không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics nói riêng và nền kinh tế nói chung cho cả giai đoạn đến năm 2025 và các năm tiếp theo.

Gần đây nhất, ngày 16/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc đẩy mạnh triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam với quan điểm: Phát triển logistics gắn với chuỗi cung ứng bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ.

Bên cạnh đó, việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN và Cơ chế một cửa Quốc gia đã được luật hóa tại Luật Hải quan năm 2014 và Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, đã mang lại cho doanh nghiệp dịch vụ logistics nhiều lợi ích, như: Giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính; Giảm số hồ sơ phải nộp cho các cơ quan quản lý; Đơn giản hóa quy trình giao tiếp với cơ quan quản lý... Với việc hàng loạt các chứng từ phải nộp, phải xuất trình được đơn giản hóa, thậm chí loại bỏ và kéo theo lợi ích về mặt chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động logistics.

Còn theo Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Công Thương xây dựng, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6%-8%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 60%-70%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-18% GDP. Đến năm 2050, tỷ trọng đóng góp đạt 12%-15%; tỷ lệ thuê ngoài đạt 70%-90%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 10%-12%; xếp hạng theo chỉ số hiệu quả logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 30 trở lên.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Kết quả đạt được

Số liệu từ “Báo cáo Logistics Việt Nam 2024: Khu thương mại tự do” của Bộ Công Thương cho thấy, ngành logistics đang đóng góp khoảng 4%-5% GDP, với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 14%-16%/năm trong giai đoạn 2018-2023. Năm 2024, Việt Nam được xếp hạng 10 về các thị trường logistics mới nổi; hạng 4 chỉ số cơ hội logistics và top 43 chỉ số hiệu quả logistics.

Điểm nổi bật của ngành logistics hiện nay là hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, an toàn, với hơn 30.000 kho bãi hiện đại và thêm 6 trung tâm logistics cấp 1 mới; nhiều công trình đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; mạng lưới giao thông đã kết nối đến mọi vùng, miền trong cả nước, giúp nâng cao hiệu quả vận chuyển, phân phối hàng hóa, tạo động lực hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics, giảm chi phí và thời gian giao hàng. Nhiều chính sách mới được ban hành, các quy định, thủ tục được điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; công tác thông tin, tuyên truyền và các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến, hợp tác quốc tế về logistics diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở cả cấp trung ương và địa phương. Vấn đề xây dựng chuỗi cung ứng logistics thân thiện môi trường và phát triển bền vững được quan tâm ở cả cấp quản lý vĩ mô và địa phương, doanh nghiệp...

Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2023, chỉ số LPI của Việt Nam đạt 3,3 điểm, đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ năm trong các nước ASEAN, tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ 14%-16%/năm, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm, nhiều doanh nghiệp logistics được thành lập, cung cấp dịch vụ logistics hiện đại và từng bước hình thành chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ hoàn thiện tới các vùng miền trong cả nước và tới các nước trong khu vực, số doanh nghiệp logistics tăng nhanh, các trung tâm logistics có quy mô lớn đang gia tăng. Có thể thấy, xếp hạng toàn cầu về chỉ số LPI của Việt Nam tăng từ vị trí 53 (năm 2007) lên 43 (năm 2023) có sự đóng góp lớn của nỗ lực cải thiện hạ tầng, số hóa quy trình, và tối ưu hóa chuỗi cung ứng.

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics ở nước ta cũng gặp phải một số khó khăn, hạn chế như sau:

Thứ nhất, chi phí logistics ở nước ta còn cao, tương đương khoảng 20% GDP; trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ tương ứng chỉ khoảng 7%-9% GDP. Ví dụ như: Phí vận chuyển một container từ TP. Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu chưa đầy 150 km, nhưng cao hơn đi Singapore; từ Nhơn Trạch về Cái Mép chỉ 40 km, nhưng phí vận chuyển lên đến 4,3 triệu đồng, trong khi từ Nhơn Trạch về Cát Lái dài 80 km chỉ 3,3 triệu đồng (Bảo Thanh, 2023). Nguyên nhân là kết nối hạ tầng giao thông còn yếu, thiếu đồng bộ giữa các địa phương liên kết vùng dẫn đến quá tải đường bộ, tăng chi phí logistics, giảm tính cạnh tranh trong thu hút xuất nhập khẩu và vận tải chuyên chở với các nước trong khu vực.

Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh) - cảng container quốc tế lớn nhất Việt Nam, đầu mối trọng điểm trong hệ thống cảng biển vùng Đông Nam Bộ suốt nhiều năm qua bị bủa vây bởi ùn tắc đã làm suy giảm hoạt động kinh tế toàn khu vực. Trung bình mỗi ngày có khoảng 19.000 đến 20.000 lượt xe ô tô ra vào cảng, do kết cấu giao thông chưa hợp lý, vào giờ cao điểm các xe container thường bị ùn tắc ở đây vài giờ mới vào được cảng, lượng tiêu tốn nhiên liệu sẽ nhiều hơn, thời gian vận chuyển hàng hóa bị chậm lại.

Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực logistics của Việt Nam hiện nay đang yếu và thiếu. Dự kiến đến năm 2030, nhu cầu nguồn nhân lực về logistics là hơn 200.000 người; trong khi đó, khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực logistics chỉ khoảng 10% nhu cầu thị trường. Số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5%-7% số lao động đang làm trong lĩnh vực này. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh cũng cho thấy, có đến 53,3% số doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics, 30% số doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên, chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên môn của nhân viên (Bảo Thanh, 2023).

Thứ ba, doanh nghiệp logistics Việt Nam tuy nhiều nhưng không mạnh. Theo đó, Việt Nam đang có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics. Thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL). Trong đó, doanh nghiệp trong nước chiếm 89%, còn 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với những tên tuổi lớn như: DHL, Kuehne+Nagel, DSV, DB Schenker… Cho dù các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ lớn, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần (Hoàng Anh, 2023), còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài, vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và chiều bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi”…

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong thời gian tới, để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, theo nhóm tác giả, cần chú trọng triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics. Theo đó, sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics...

Hai là, rà soát các quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tính đồng bộ kết nối của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Đồng thời, tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận tải, vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics. Trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.

Ba là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics; Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics; Đẩy mạnh tuyên truyền cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.

Đặc biệt, cần tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.

Bốn là, trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, việc chuyển đổi số trong ngành logistics là một yếu tố không thể thiếu để tối ưu hóa hoạt động và nâng cao hiệu quả. Các ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và Internet vạn vật (IoT) đang ngày càng được tích hợp vào các quy trình logistics để quản lý chuỗi cung ứng thông minh và chính xác hơn. AI giúp dự đoán nhu cầu hàng hóa, tối ưu hóa các tuyến đường vận chuyển; trong khi Blockchain đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quá trình giao nhận hàng hóa; IoT cung cấp dữ liệu theo thời gian thực về vị trí và trạng thái của hàng hóa, giúp các doanh nghiệp theo dõi và điều chỉnh hoạt động logistics kịp thời.

Năm là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao. Trong thời đại mới của kỷ nguyên số, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho thị trường lao động là điều tất yếu. Đặc biệt với xu hướng giao thoa logistics giữa các quốc gia trên thế giới, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển bền vững của logistics Việt Nam. Theo đó, các chương trình đào tạo chuyên ngành logistics cần được xây dựng trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; tập trung đẩy mạnh các khóa bồi dưỡng kỹ năng thực hành, kỹ năng quản trị chuỗi cung ứng, ngoại ngữ và công nghệ số cho người lao động.

Tài liệu tham khảo:

1. Bảo Thanh (2023). Ngành logistics: kỳ vọng và những điểm nghẽn. https://nhandan.vn/nganh-logistics-ky-vong-va-nhung-diem-nghen-post774329.html

2. Bộ Công Thương (2023). Báo cáo Logistics Việt Nam 2023: Chuyển đổi số trong logistics, Nxb Công thương.

3. Bộ Công Thương (2024). Báo cáo Logistics Việt Nam 2024: Khu thương mại tự do, Nxb Công thương.

4. Bộ Công Thương (2025). Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

5. Hoàng Anh (2023). Tháo gỡ “điểm nghẽn” cho ngành logistics, https://nhandan.vn/thao-go-diem-nghen-cho-nganh-logistics-post758551.html

6. Thanh Hải (2023). Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Logistics chất lượng cao, https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/giai-phap-phat-trien-nguon-nhan-luc-nganh-logistics-chat-luong-cao-58656.html.

Ngày nhận bài: 29/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/9/2025; Ngày duyệt đăng: 29/9/2025