NCS. Lê Phước Quang
Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh
Tóm tắt
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ, giải phóng mặt bằng đã dẫn tới hệ quả rõ nét nhất về việc người dân mất đất, kéo theo sự đứt gãy sinh kế. Bài viết khái quát một số vấn đề đặt ra và sự cần thiết phải đảm bảo sinh kế cho người dân sau giải phóng mặt bằng để phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời đề xuất một số giải pháp liên quan, với việc phát huy vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Từ khóa: Đảm bảo sinh kế, sinh kế bền vững, giải phóng mặt bằng, phát triển kinh tế - xã hội
Summary
During the process of socio-economic development, especially in the context of increasingly rapid urbanization, industrialization, and modernization, land clearance has led to one of the most evident consequences: land loss for local people, resulting in the disruption of their livelihoods. The article outlines several emerging issues and emphasizes the necessity of ensuring livelihoods for affected people after land clearance, in order to foster sustainable socio-economic development. At the same time, it proposes relevant solutions, highlighting the roles of the State, businesses, and local communities.
Keywords: Livelihood security, sustainable livelihoods, land clearance, socio-economic development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giải phóng mặt bằng (GPMB) là một quá trình không thể thiếu trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, một trong những hệ quả rõ nét nhất mà GPMB để lại chính là việc người dân mất đất - tư liệu sản xuất chủ yếu - kéo theo đó là sự đứt gãy sinh kế. Nếu không có chính sách phù hợp, nguy cơ tái nghèo, thất nghiệp và bất ổn xã hội sẽ gia tăng đáng kể.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ SỰ CẦN THIẾT TRONG VIỆC ĐẢM BẢO SINH KẾ SAU GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
Thứ nhất, ngăn ngừa nguy cơ nghèo và bất ổn xã hội của người dân sau giải phóng mặt bằng
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa mạnh mẽ hiện nay, GPMB là hoạt động thiết yếu để triển khai các dự án phát triển hạ tầng, khu công nghiệp, khu đô thị và các công trình công cộng. Tuy nhiên, song hành với những lợi ích kinh tế - xã hội đó là những hệ lụy đáng lo ngại đối với đời sống của người dân bị thu hồi đất, đặc biệt là nguy cơ tái nghèo và bất ổn xã hội. Đây không chỉ là những hệ quả cá biệt, mà còn là những vấn đề có tính hệ thống, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến công bằng xã hội, ổn định cộng đồng và hiệu quả phát triển bền vững. Vì vậy, ngăn ngừa nguy cơ nghèo và bất ổn xã hội sau GPMB là một yêu cầu cấp thiết trong mọi quy trình phát triển sử dụng đất đai hiện nay.
Một trong những hệ quả rõ ràng nhất của GPMB là việc người dân, đặc biệt là nông dân, mất đi tư liệu sản xuất chính là đất đai. Với nhiều hộ, đất không chỉ là nơi ở mà còn là nguồn thu nhập chủ yếu thông qua trồng trọt, chăn nuôi hoặc buôn bán tại chỗ. Khi mất đất mà không có phương án chuyển đổi sinh kế hiệu quả, người dân nhanh chóng lâm vào cảnh thất nghiệp, thu nhập sụt giảm và không còn khả năng tự chủ tài chính.
Điều đáng lo ngại là phần lớn tiền đền bù sau thu hồi đất không được sử dụng một cách hiệu quả. Nhiều hộ dân vì thiếu kiến thức tài chính và kỹ năng lập kế hoạch đã sử dụng khoản tiền này vào tiêu dùng ngắn hạn, xây nhà, mua sắm vật dụng mà không đầu tư cho sản xuất hay học nghề. Sau vài năm, tiền đền bù cạn kiệt nhưng việc làm và nguồn thu nhập thay thế chưa hình thành, khiến họ nhanh chóng rơi vào trạng thái nghèo hoặc cận nghèo. Đây không chỉ là vấn đề cá nhân của từng hộ gia đình mà còn kéo theo những hệ lụy xã hội nghiêm trọng. Khi sinh kế không được bảo đảm, người dân dễ rơi vào trạng thái tâm lý bất mãn, mất lòng tin vào chính quyền, từ đó phát sinh mâu thuẫn, khiếu kiện, thậm chí phản kháng.
Ngoài ra, bất ổn xã hội còn thể hiện ở sự đứt gãy mạng lưới cộng đồng. Khi người dân bị di dời khỏi nơi ở cũ, họ mất đi các mối quan hệ xã hội như làng xóm, thân tộc, tổ chức hội đoàn… Những giá trị cộng đồng từng là nền tảng hỗ trợ nhau trong cuộc sống bị đứt đoạn, khiến nhiều người rơi vào trạng thái cô lập, thiếu sự gắn kết, dẫn đến gia tăng các vấn đề xã hội như trộm cắp vặt, nghiện ngập, bạo lực gia đình hoặc bất hợp tác với chính quyền. Việc thiếu việc làm ổn định, thiếu cơ hội học tập, thiếu không gian sinh hoạt cộng đồng tại khu tái định cư (TĐC) càng khiến cảm giác lạc lõng, vô định trong cộng đồng gia tăng.
Thứ hai, bảo đảm quyền sống và phát triển của người dân
Bảo đảm quyền sống và phát triển của người dân là một nội dung cốt lõi trong mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, thể hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền cơ bản của con người. Đặc biệt, trong bối cảnh GPMB để triển khai các dự án hạ tầng, khu đô thị, khu công nghiệp..., vấn đề này càng trở nên cấp thiết, bởi người dân - đối tượng bị thu hồi đất - thường là những người trực tiếp phải chịu tác động đến nơi ở, sinh kế, an sinh và môi trường sống. Việc bảo đảm quyền sống và phát triển cho họ không chỉ là yêu cầu đạo lý, mà còn là chuẩn mực pháp lý và điều kiện để phát triển bền vững.
Quyền sống là quyền tối thiểu, thiêng liêng và không thể bị xâm phạm. Nó không chỉ bao hàm sự tồn tại về thể chất mà còn liên quan đến điều kiện sống an toàn, có nơi ở, được tiếp cận nước sạch, thực phẩm, chăm sóc y tế và được bảo vệ trước các rủi ro xã hội. Trong quá trình GPMB, nếu người dân bị di dời mà không có nơi ở ổn định, không có sinh kế thay thế, họ có nguy cơ rơi vào cảnh vô gia cư, thất nghiệp, thậm chí đói nghèo - điều này đồng nghĩa với việc quyền sống bị đe dọa nghiêm trọng.
Quyền phát triển là quyền được học tập, làm việc, sáng tạo, nâng cao chất lượng sống và tham gia vào đời sống kinh tế - xã hội một cách bình đẳng. Khi người dân bị thu hồi đất, quyền phát triển của họ có thể bị ảnh hưởng nếu không có chính sách bồi thường thỏa đáng, không được đào tạo nghề, không được hỗ trợ tìm việc làm hoặc tiếp cận dịch vụ công cơ bản như giáo dục, y tế, bảo hiểm. Hệ quả là người dân không chỉ mất tư liệu sản xuất mà còn mất cả cơ hội cải thiện cuộc sống cho chính mình và thế hệ sau.
Để bảo đảm quyền sống và phát triển đòi hỏi Nhà nước và chủ đầu tư phải đặt con người làm trung tâm của mọi quyết định. Điều này bao gồm: đền bù công bằng và minh bạch; bố trí TĐC phù hợp với nhu cầu sống và làm ăn; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; đảm bảo tiếp cận các dịch vụ cơ bản; có cơ chế giám sát, phản hồi và điều chỉnh chính sách khi cần thiết. Bảo đảm quyền sống và phát triển không chỉ là nghĩa vụ chính trị và pháp lý của Nhà nước, mà còn là yếu tố quyết định sự thành công của mọi chính sách phát triển. Khi quyền của người dân được bảo vệ, họ không còn là "đối tượng bị ảnh hưởng" mà trở thành "chủ thể đồng hành" trong quá trình phát triển, từ đó tạo ra sự đồng thuận xã hội, ổn định cộng đồng và phát triển bền vững thực chất.
Thứ ba, tăng hiệu quả đầu tư và phát triển bền vững sau giải phóng mặt bằng
GPMB là bước khởi đầu không thể thiếu trong quá trình triển khai các dự án đầu tư phát triển hạ tầng, khu đô thị, khu công nghiệp hay các công trình công cộng. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư không chỉ được đo bằng tiến độ thi công hay quy mô công trình, mà còn phụ thuộc rất lớn vào mức độ ổn định, sự đồng thuận và năng lực phát triển bền vững của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng. Chính vì vậy, việc đảm bảo sinh kế cho người dân và hạn chế hệ lụy xã hội sau GPMB là một yếu tố then chốt để tăng hiệu quả đầu tư và đạt được phát triển bền vững.
Trước hết, khi người dân bị mất đất, đây là tài sản sinh kế quan trọng nhất, nhưng không được hỗ trợ đầy đủ trong việc chuyển đổi nghề, tạo việc làm hay ổn định nơi ở, thì nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, khiếu kiện kéo dài là rất cao. Tình trạng này không chỉ gây lãng phí thời gian, trì trệ tiến độ dự án, mà còn làm phát sinh chi phí xã hội lớn, ảnh hưởng đến uy tín nhà đầu tư và hiệu lực quản lý của chính quyền địa phương. Ngược lại, nếu GPMB được thực hiện bài bản, công khai, đi kèm với chính sách sinh kế hợp lý, thì người dân sẽ đồng thuận, hợp tác, từ đó giảm thiểu xung đột, rút ngắn thời gian triển khai và tiết kiệm nguồn lực.
Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư không thể chỉ dừng lại ở giá trị vật chất tức thời, mà cần hướng đến giá trị lâu dài, khả năng vận hành hiệu quả và sự lan tỏa về kinh tế - xã hội. Một dự án hạ tầng dù hiện đại đến đâu cũng không thể phát huy giá trị nếu xung quanh là cộng đồng TĐC nghèo khó, mất sinh kế, hoặc thiếu động lực phát triển. Ngược lại, nếu người dân được hỗ trợ chuyển đổi nghề thành công, có việc làm ổn định, tham gia vào chuỗi giá trị của dự án thì họ không chỉ hưởng lợi, mà còn đóng vai trò là lực lượng lao động, khách hàng và đối tác phát triển tích cực, góp phần mở rộng quy mô, nâng cao tính bền vững của dự án.
Hơn nữa, đảm bảo sinh kế cho người dân sau GPMB còn là biểu hiện của tư duy đầu tư có trách nhiệm - một xu hướng ngày càng được đề cao trong phát triển kinh tế hiện đại. Các nhà đầu tư nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội sẽ gia tăng uy tín, thu hút được sự ủng hộ từ chính quyền và người dân, từ đó tạo thuận lợi trong quá trình triển khai các dự án tiếp theo. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh và hướng đến phát triển kinh tế xanh, bao trùm và nhân văn.
Việc tăng hiệu quả đầu tư và phát triển bền vững sau GPMB không thể tách rời khỏi việc đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân. Đây không chỉ là điều kiện để một dự án thành công về mặt kỹ thuật - tài chính, mà còn là yếu tố quyết định khả năng thích nghi, phát triển lâu dài và tạo giá trị xã hội thực chất. Đầu tư cho sinh kế cũng chính là đầu tư cho sự ổn định, hài hòa và thành công bền vững của chính dự án đó trong hệ sinh thái phát triển rộng lớn hơn.
Thứ tư, thể hiện công bằng trong phân phối lợi ích phát triển sau giải phóng mặt bằng
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, GPMB là bước đi tất yếu để triển khai các dự án hạ tầng, đô thị, công nghiệp, giao thông và dịch vụ công cộng. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng giá trị đất đai, cơ hội kinh doanh và thu hút đầu tư, thì người dân bị thu hồi đất, những người hy sinh quyền sử dụng đất vì lợi ích chung lại thường đối mặt với nguy cơ mất sinh kế, mất nơi ở hoặc thiệt thòi so với các nhóm hưởng lợi khác. Vì vậy, việc bảo đảm công bằng trong phân phối lợi ích phát triển sau GPMB là một yêu cầu không chỉ mang tính đạo lý, mà còn là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá tính bền vững, hợp pháp và chính đáng của các dự án phát triển.
Thể hiện công bằng nghĩa là không để một nhóm người chịu thiệt hoàn toàn trong khi nhóm khác được hưởng lợi vượt trội. Trong nhiều trường hợp, giá trị đất sau khi quy hoạch tăng gấp nhiều lần, nhưng người dân bị thu hồi đất lại chỉ nhận khoản đền bù một lần, trong khi chủ đầu tư, doanh nghiệp hoặc người mua nhà trong dự án hưởng lợi lâu dài từ giá trị địa tô chênh lệch. Điều này dẫn đến cảm giác bất bình đẳng, dễ phát sinh mâu thuẫn, khiếu kiện hoặc tâm lý phản kháng trong cộng đồng. Ngược lại, nếu lợi ích phát triển được phân phối công bằng - thông qua cơ chế hỗ trợ sinh kế, bố trí TĐC chất lượng, tạo việc làm, đào tạo nghề, chia sẻ giá trị địa tô… thì người dân sẽ cảm thấy họ là một phần của sự phát triển chứ không phải là “nạn nhân của quy hoạch”.
Việc bảo đảm công bằng cũng đòi hỏi nhìn nhận người dân bị thu hồi đất như những chủ thể phát triển, chứ không phải là đối tượng bị tác động cần “hỗ trợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc họ phải được tham gia vào quy trình ra quyết định, có quyền phản biện chính sách, được cung cấp thông tin minh bạch và có cơ hội tận dụng sự thay đổi để nâng cao điều kiện sống, học tập, làm việc. Khi sự công bằng được đảm bảo, người dân sẽ chủ động hợp tác, đồng thuận và đóng góp tích cực vào sự thành công của dự án, điều mà mọi chính quyền và nhà đầu tư đều mong muốn.
Công bằng trong phân phối lợi ích sau GPMB chính là thước đo đạo đức phát triển và hiệu lực quản trị, phản ánh rõ bản chất nhân văn, trách nhiệm xã hội và năng lực điều tiết của Nhà nước. Đảm bảo công bằng không chỉ giúp hàn gắn những rạn nứt xã hội tiềm ẩn trong quá trình di dời - TĐC, mà còn tạo nền tảng cho một mô hình phát triển hài hòa, bao trùm và bền vững. Bởi chỉ khi người dân cảm thấy mình không bị bỏ lại phía sau, sự phát triển mới thật sự có ý nghĩa lâu dài và bền vững.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, từ đó đảm bảo sinh kế bền vững sau giải phóng mặt bằng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, theo tác giả, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Về phía Nhà nước
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý về bồi thường, hỗ trợ và TĐC. Cần rà soát, điều chỉnh các quy định liên quan đến Luật Đất đai, các nghị định và thông tư hướng dẫn để bảo đảm mức bồi thường sát với giá trị thị trường, minh bạch và công bằng. Trong nhiều trường hợp, chênh lệch giữa giá bồi thường và giá đất thực tế khiến người dân thiệt thòi, dễ phát sinh khiếu kiện. Do đó, thể chế cần có cơ chế định giá đất độc lập, khách quan,. Cần thiết lập các hội đồng định giá đất độc lập, có sự tham gia của các tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp, đại diện cộng đồng dân cư và chuyên gia kinh tế. Bảng giá phải cập nhật theo biến động thị trường ít nhất 6 tháng/lần. Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa hình thức bồi thường bên cạnh đền bù bằng tiền, cần mở rộng hình thức “đất đổi đất” hoặc “nhà đổi nhà”, nhất là đối với hộ dân có nhu cầu sản xuất nông nghiệp hoặc muốn tiếp tục cư trú gần nơi ở cũ. Đây là cách vừa giúp người dân duy trì sinh kế, vừa giảm nguy cơ sử dụng tiền đền bù vào tiêu dùng ngắn hạn.
Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung chính sách hỗ trợ sau TĐC. Khung pháp lý cần quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ sinh kế lâu dài cho người dân TĐC, như: cho vay vốn ưu đãi, đào tạo nghề, bố trí việc làm, miễn giảm thuế hoặc phí dịch vụ trong những năm đầu. Đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy trình kiểm kê, xác định nguồn gốc đất, chi trả bồi thường cần được tinh gọn, có thời hạn cụ thể. Toàn bộ hồ sơ nên được số hóa, công khai trên hệ thống điện tử để người dân dễ dàng tra cứu, giảm thiểu khiếu nại.
Thứ hai, xây dựng chính sách an sinh toàn diện cho hộ TĐC. Bên cạnh đất và nhà, Nhà nước cần ban hành chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, đào tạo kỹ năng lao động mới, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí hoặc giảm phí trong giai đoạn đầu. Chính sách an sinh không nên chỉ dừng lại ở trợ cấp một lần mà phải có tính dài hạn, gắn với chiến lược xóa đói giảm nghèo bền vững. Điều này đặc biệt cần thiết đối với nhóm hộ nghèo, hộ cận nghèo và những đối tượng yếu thế (phụ nữ đơn thân, người già, người khuyết tật).
Thứ ba, chính sách tín dụng và hỗ trợ vốn ưu đãi. Nhà nước cần mở rộng các gói vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ hỗ trợ việc làm, Quỹ quốc gia về giảm nghèo, để người dân có vốn đầu tư sinh kế mới. Đồng thời, nên có quy định khuyến khích các tổ chức tín dụng thương mại phối hợp triển khai sản phẩm tài chính vi mô, vừa dễ tiếp cận vừa giảm rủi ro cho hộ dân TĐC.
Thứ tư, thể chế hóa cơ chế tham gia của cộng đồng. Một bất cập lớn trong di dời, TĐC là người dân ít có tiếng nói trong quá trình ra quyết định. Vì vậy, cần quy định rõ về quyền tham gia của cộng đồng trong tất cả các khâu: quy hoạch khu TĐC, xây dựng hạ tầng, xác định giá bồi thường và triển khai các dự án sinh kế. Việc này không chỉ tăng tính minh bạch mà còn nâng cao tinh thần đồng thuận, tránh khiếu nại kéo dài.
Thứ năm, tăng cường chính sách phối hợp liên ngành. Việc di dời và TĐC liên quan đồng thời đến nhiều lĩnh vực như đất đai, xây dựng, lao động việc làm, y tế, giáo dục, văn hóa. Do đó, Nhà nước cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp. Một “ban điều phối TĐC” liên ngành cấp tỉnh/thành phố có thể được thành lập để thống nhất chính sách, tránh chồng chéo và bảo đảm quyền lợi người dân.
Thứ sáu, thiết lập cơ chế giám sát và phản hồi chính sách. Các chính sách ban hành chỉ thực sự có hiệu quả khi đi vào đời sống thực tiễn. Vì vậy, cần thiết lập cơ chế giám sát độc lập, có sự tham gia của các tổ chức xã hội, hội đoàn thể và cả người dân TĐC. Đồng thời, phải có kênh phản hồi chính sách để kịp thời điều chỉnh khi phát sinh bất cập.
Về phía doanh nghiệp
Một là, liên kết đào tạo nghề, tạo việc làm. Doanh nghiệp không chỉ tuyển dụng, mà còn có thể phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề để mở lớp dạy nghề gắn liền nhu cầu thực tế.
Hai là, phát triển cơ sở sản xuất vệ tinh gần khu TĐC. Doanh nghiệp có thể mở các cơ sở sản xuất nhỏ, xưởng gia công vệ tinh ngay gần khu TĐC, vừa tiết kiệm chi phí nhân công, vừa tạo việc làm tại chỗ cho người dân. Hình thức này đặc biệt phù hợp với lao động nữ, người lớn tuổi - nhóm ít có điều kiện di chuyển xa.
Ba là, đảm bảo chính sách an sinh xã hội. Doanh nghiệp cần thực hiện trách nhiệm xã hội bằng cách đóng góp trực tiếp vào các chương trình an sinh như cấp học bổng cho học sinh hộ TĐC, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế, tài trợ xây dựng công viên, sân chơi hoặc nhà sinh hoạt cộng đồng. Điều này không chỉ cải thiện điều kiện sống, mà còn tạo dựng niềm tin giữa doanh nghiệp với cộng đồng. Bảo đảm chế độ lao động công bằng khi tuyển dụng lao động TĐC, doanh nghiệp cần thực hiện đầy đủ các chế độ: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương tối thiểu, môi trường làm việc an toàn. Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp luật, mà còn là cách doanh nghiệp đảm bảo an sinh lâu dài cho người lao động.
Doanh nghiệp hỗ trợ chuyển đổi sinh kế như hỗ trợ vốn và khởi nghiệp nhỏ. Nhiều hộ dân có nhu cầu mở cửa hàng tạp hóa, quán ăn, dịch vụ nhỏ tại khu TĐC. Doanh nghiệp có thể thiết lập quỹ khởi nghiệp cộng đồng, cung cấp vốn nhỏ kèm tư vấn kinh doanh. Đây là một hình thức trách nhiệm xã hội có tác động trực tiếp đến năng lực tự chủ của hộ dân.
Về phía người dân
Thứ nhất, phát huy nội lực của bản thân và gia đình trong tạo lập sinh kế. Phát huy nội lực của bản thân và gia đình trong tạo lập sinh kế là một yếu tố then chốt giúp mỗi cá nhân và hộ gia đình đứng vững trước những biến động của đời sống kinh tế - xã hội. Nội lực cá nhân thể hiện qua kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sức khỏe, tư duy sáng tạo và khả năng quản lý tài chính; trong khi đó, nội lực gia đình được hình thành từ các nguồn lực chung, như: đất đai, vốn liếng, tài sản, nghề truyền thống, mối quan hệ xã hội cũng như tinh thần đoàn kết giữa các thành viên. Khi phát huy được nội lực, con người có thể chủ động hơn, giảm sự lệ thuộc vào hỗ trợ từ bên ngoài, đồng thời biến tiềm năng sẵn có thành giá trị kinh tế thực tiễn và tạo nền tảng để tiếp nhận các nguồn lực ngoại sinh như vốn vay, chính sách hay công nghệ mới.
Ở góc độ người dân sau GPMB, việc phát huy nội lực cần bắt đầu từ việc học tập, rèn luyện để nâng cao tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, giữ gìn sức khỏe để duy trì năng suất lao động, mạnh dạn đổi mới sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh, cũng như biết cách quản lý, tích lũy và đầu tư tài chính một cách hiệu quả. Đối với gia đình, nội lực được phát huy qua việc khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có như đất đai, công cụ lao động và nghề truyền thống, đồng thời tổ chức phát triển kinh tế hộ gia đình dựa trên sự phối hợp của các thành viên. Gia đình cũng là môi trường hỗ trợ lẫn nhau trong học tập, lao động, là nơi định hướng và đầu tư cho thế hệ sau, đồng thời đóng vai trò cầu nối tham gia vào các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác hay hiệp hội nghề nghiệp để mở rộng cơ hội sinh kế.
Hai là, khắc phục tâm lý ỷ lại, biết chấp nhận thử thách, chuyển đổi nghề để tạo sinh kế. Người dân sau TĐC phải biết chấp nhận thử thách trong quá trình tạo lập sinh kế, thử thách là điều không thể tránh khỏi khi đến địa điểm mới, mất khách hàng truyền thống, mất đi địa điểm kinh doanh ổn định, khả năng cạnh tranh thị trường cao hơn, chính sách thay đổi, hay rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh. Biết chấp nhận thử thách đồng nghĩa với việc rèn luyện tinh thần bền bỉ, kiên cường và khả năng thích ứng. Việc chấp nhận thử thách còn khơi dậy tinh thần sáng tạo, khát vọng vươn lên, từ đó hình thành văn hóa lao động năng động, đổi mới, thay vì an phận hoặc e dè trước rủi ro.
Người dân cần chủ động chuyển đổi nghề để tạo sinh kế. Chuyển đổi nghề không chỉ là giải pháp tình thế mà còn là chiến lược lâu dài để thích ứng với xu thế phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, biến đổi khí hậu và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số khiến nhiều ngành nghề truyền thống bị thu hẹp, trong khi lại mở ra nhiều cơ hội việc làm mới. Người dân cần được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mới để có thể chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, thương mại điện tử hoặc du lịch cộng đồng. Việc chuyển đổi nghề cũng đòi hỏi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và xã hội, như chính sách đào tạo nghề, cung cấp thông tin thị trường lao động, tạo điều kiện vay vốn để khởi nghiệp hoặc đầu tư vào lĩnh vực mới. Tuy nhiên, yếu tố then chốt vẫn nằm ở sự chủ động của mỗi cá nhân và hộ gia đình trong việc nắm bắt cơ hội, dám thay đổi và sẵn sàng hội nhập.
Ba là, tự thân tìm kiếm việc làm và nâng cao trình độ học vấn, kỷ năng để tạo lập sinh kế. Sau quá trình GPMB, nhiều hộ dân phải đối diện với việc thay đổi môi trường sống, mất đi nghề nghiệp quen thuộc hoặc nguồn thu nhập truyền thống. Trong bối cảnh ấy, vấn đề tự thân tìm kiếm việc làm và chủ động nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng trở thành con đường trọng yếu để người dân tạo lập sinh kế bền vững, ổn định cuộc sống lâu dài. Theo đó, người dân cần tự tiếp cận thông tin thị trường lao động, tìm hiểu nhu cầu tuyển dụng tại các khu công nghiệp, khu du lịch dịch vụ hoặc chủ động tham gia các mô hình kinh tế nhỏ lẻ, buôn bán, dịch vụ gắn với cộng đồng TĐC. Tính chủ động này không chỉ tạo ra cơ hội việc làm trước mắt mà còn giúp người dân nâng cao khả năng thích ứng với thị trường lao động trong dài hạn.
Đặc biệt, trình độ học vấn cũng là một trở ngại của người dân là lao động tự do và buôn bán nhỏ. Người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ tại các khu TĐC, nếu được khuyến khích tiếp tục học tập, theo học các chương trình đào tạo nghề, cao đẳng, đại học hoặc các khóa huấn luyện ngắn hạn thì khả năng hội nhập và tìm được việc làm ổn định sẽ cao hơn. Nâng cao học vấn cũng đồng nghĩa với việc mở rộng vốn tri thức, rèn luyện tư duy sáng tạo, từ đó tăng năng lực tham gia vào các ngành nghề mới, phù hợp với định hướng phát triển của địa phương. Bên cạnh học vấn, thì kỹ năng nghề nghiệp chính là yếu tố then chốt quyết định đến cơ hội việc làm.
KẾT LUẬN
Có thể thấy, việc đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân sau GPMB cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo thể chế và công bằng về chính sách như định hướng dài hạn, đơn giản hóa thủ tục, ưu đãi thuế, tín dụng nhỏ, đầu tư hạ tầng thiết yếu, bảo đảm an sinh trong giai đoạn đầu. Doanh nghiệp giữ vai trò hỗ trợ, tạo môi trường về sinh kế và an sinh. Người dân vẫn là chủ thể quyết định tính bền vững cho sinh kế trong tương lai.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
2. Minh Khôi (2023). Quan tâm cuộc sống, sinh kế của người dân bị ảnh hưởng khi thu hồi đất. https://baophapluat.vn/quan-tam-cuoc-song-sinh-ke-cua-nguoi-dan-bi-anh-huong-khi-thu-hoi-dat-post478978.html.
3. Quốc hội (2024). Luật Đất đai, số 31/2024/QH15 ngày 18/1/2024.
Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/9/2025; Ngày duyệt đăng: 10/10/2025 |