Vương Thành Chung
Bộ Công thương
Tóm tắt
Nghiên cứu tập trung phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa ngành công nghiệp hóa chất và phát triển kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh và bền vững. Nghiên cứu nhấn mạnh vai trò trung tâm của Nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ và điều tiết quá trình chuyển đổi tuần hoàn thông qua: hoàn thiện khung pháp lý, chính sách khuyến khích đầu tư xanh, cơ chế thuế – phí môi trường hợp lý, phát triển hạ tầng tái chế – xử lý chất thải, cùng với tăng cường năng lực giám sát, kiểm soát rủi ro hóa chất. Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng chính sách công nghiệp hóa chất bền vững, đồng thời đề xuất giải pháp quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy mối liên kết hài hòa giữa phát triển ngành hóa chất và kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
Từ khóa: Công nghiệp hóa chất, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững, chính sách công, vai trò nhà nước.
Summary
The study focuses on analyzing the interrelationship between the chemical industry and the development of a circular economy in the context of transitioning toward a green and sustainable growth model. It emphasizes the central role of the State in guiding, supporting, and regulating the circular transition process through measures such as improving the legal framework, promoting green investment policies, establishing appropriate environmental tax and fee mechanisms, developing recycling and waste treatment infrastructure, and strengthening capacity in monitoring and chemical risk management. The findings provide a scientific foundation for formulating sustainable chemical industry policies and propose state management solutions to foster a harmonious linkage between chemical industry development and the circular economy in Viet Nam in the coming period.
Keywords: Chemical industry, circular economy, sustainable development, public policy, state role
GIỚI THIỆU
Ngành công nghiệp hóa chất vừa đóng vai trò nguồn cung cấp vật liệu, năng lượng và đầu vào quan trọng cho nhiều lĩnh vực sản xuất, vừa là nguồn phát sinh chất thải và rủi ro môi trường đáng kể. Vì vậy, việc tái cấu trúc hoạt động của ngành theo hướng tuần hoàn hóa có ý nghĩa then chốt đối với việc hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Nghiên cứu làm rõ các mối liên kết chủ yếu giữa ngành hóa chất và kinh tế tuần hoàn (KTTH), bao gồm: (1) ứng dụng công nghệ xanh, tái chế và tái sử dụng nguyên liệu; (2) giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm năng lượng và tài nguyên; (3) phát triển sản phẩm hóa chất sinh học, thân thiện môi trường; và (4) thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong quản lý chuỗi giá trị hóa chất.
TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN
Khái niệm KTTH (circular economy - CE) ra đời từ những năm 1990, trong bối cảnh xã hội hiện đại phát triển, tiêu dùng tăng cao gây ra nhiều nhân tố tác động tiêu cực đến sức khỏe con người và hệ sinh thái, cũng như mang đến nhiều mối nguy hại cho môi trường và sự phát triển bền vững. Quỹ Ellen Mac Arthur định nghĩa nền KTTH là nền kinh tế vượt qua mô hình công nghiệp khai thác tận thu hiện nay, tập trung vào các lợi ích tích cực cho toàn xã hội. Nó kéo theo hoạt động kinh tế dần tách rời khỏi việc tiêu thụ các nguồn tài nguyên hữu hạn và hạn chế chất thải phát sinh, đồng thời chuyển đổi sang các nguồn năng lượng tái tạo (Ellen Macarthur Foundation, 2025).
Tổ chức Ellen Macarthur đã xác định ba nguyên tắc chính của một nền KTTH đó là: (1) Giảm và loại bỏ thải và ô nhiễm; (2) Kéo dài thời hạn sử dụng của sản phẩm và nguyên vật liệu; (3) Tái tạo hệ thống tự nhiên.
Như vậy, quá trình vận hành của nền KTTH sẽ không có chất thải ra môi trường, do đó giải quyết được bài toán xử lý mối quan hệ giữa “kinh tế” và “môi trường”. KTTH thực hiện được hai nội dung: (i) Hạn chế tối đa khai thác nguyên liệu thô từ môi trường tự nhiên và duy trì hệ sinh thái; (ii) Không còn đưa chất thải ra môi trường gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, duy trì chất lượng môi trường.
Tóm lại, KTTH là các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường, qua đó giảm thiểu tổn hại đến chất lượng cuộc sống thông qua các giải pháp tái chế chất thải, sử dụng nguyên liệu tái chế làm nguyên liệu đầu vào để tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đó cũng là việc quản lý, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo, quản lý rác thải bằng cách tái chế để tối ưu hóa giá trị trên nguyên tắc là các vật liệu và tài nguyên được sử dụng càng lâu thì giá trị thu được từ chúng càng nhiều.
![]() |
MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA CHẤT VỚI MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KTTH không chỉ là chiến lược quan trọng đối với toàn cầu, đối với mỗi quốc gia mà còn đối với từng doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và doanh nghiệp hóa chất phát triển theo hướng kinh tế tuần hoàn cũng chính là góp phần quan trọng thúc đẩy thực hiện KTTH của quốc gia. Tuy nhiên đây cũng là ngành đặt ra nhiều vấn đề về môi trường, sức khỏe con người và biến đổi khí hậu. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), việc quản lý hóa chất không chặt chẽ trong năm 2016 đã dẫn đến ít nhất 1,6 triệu ca tử vong trên toàn thế giới. Do đó, KTTH không chỉ là chiến lược quan trọng đối với toàn cầu, đối với từng quốc gia mà còn đối với từng doanh nghiệp; và chính vì vậy các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và doanh nghiệp hóa chất phát triển theo hướng KTTH cũng chính là đã góp phần cho cả nền kinh tế của quốc gia phát triển theo xu thế KTTH.
Ngành công nghiệp hóa chất có nhiều tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và rủi ro môi trường, nhưng trên thực tế ngành hóa chất đã tạo ra các giải pháp công nghệ, các công cụ và vật liệu để giải quyết ô nhiễm cho chính mình và những nguồn ô nhiễm khác; và khi thực hiện KTTH thì vai trò của khoa học hóa học và ngành công nghiệp hóa chất là không thể phủ nhận. Do vậy, thúc đẩy quản lý hóa chất; thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hóa chất bền vững là hết sức cần thiết để tối đa hóa các lợi ích, đóng góp vào mục tiêu chung.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng: hóa học và công nghiệp hóa chất chính là công cụ không thể thiếu để thực thi một nền KTTH. Hóa học và công nghiệp hóa chất đã và sẽ là ngành giao thoa của các yêu cầu về nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên không tái tạo, tăng khả năng khai thác, phát triển, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên tái tạo (kể cả chất thải) để đồng thời giải quyết những xung đột về phát triển và môi trường và xã hội trong những xu thế hiện đại và văn minh hóa ở tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Hình 2: Mối quan hệ giữa ngành hóa chất với nền kinh tế tuần hoàn
![]() |
Nguồn: Tác giả xây dựng |
Khác với cách tiếp cận của nền kinh tế tái chế, trong KTTH mục tiêu hiệu suất và giá trị gia tăng sẽ được xem xét và lồng ghép trong tất cả các giai đoạn của vòng đời sản phẩm, từ khâu thiết kế sản phẩm, chuẩn bị nguyên liệu, đến khâu sản xuất ra sản phẩm, khâu sử dụng sản phẩm, quản lý sản phẩm sau sử dụng và chất thải… Với tiêu chí chung là tăng tối đa hiệu suất và giá trị, giảm tối đa tác động từ chất thải vào môi trường ở từng công đoạn của vòng đời. Để đạt được mục tiêu này, ngoài những công cụ pháp lý và tài chính thì vai trò của công nghệ là vô cùng quan trọng.
KTTH là giải pháp quan trọng để giảm thiểu phát sinh chất thải và ô nhiễm môi trường. Để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực hóa học và công nghiệp hóa chất, cần phải tiến hành đánh giá tổng thể 10 phân ngành của lĩnh vực hóa chất và qua đó xây dựng kế hoạch áp dụng kinh tế tuần hoàn, với ưu tiên từ các hoạt động thiết thực, dễ thực hiện, dễ tạo sự thay đổi. Bằng cách áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững và KTTH, các doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị theo 4 khía cạnh chính: Tạo doanh thu, nâng cao thương hiệu, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu rủi ro.
KTTH là một xu hướng tất yếu đối với sự phát triển chung của tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế, xã hội; đặc biệt là lĩnh vực chế biến, chế tạo. Thực tế, có rất nhiều nước đang theo đuổi và đã luật hóa các quy định liên quan đến nền kinh tế tuần hoàn. Đáng chú ý, ngành công nghiệp hóa chất là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên (quặng apatit, than đá, dầu mỏ…), đồng thời cũng là ngành phát sinh ra nhiều chất thải nguy hại. Nhiều sản phẩm của ngành công nghiệp hóa chất hiện nay chưa được sử dụng hiệu quả hoặc chưa được xử lý triệt để.
Trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 cũng ưu tiên, khuyến khích đầu tư xây dựng các Tổ hợp công nghiệp hóa chất, các khu công nghiệp hóa chất chuyên sâu với nhiều doanh nghiệp hóa chất có liên quan để tạo thành chuỗi liên kết, phát triển mô hình KTTH. Đây là một trong những giải pháp đột phá trong chiến lược. Từ trước đến nay, hóa chất vẫn bị một số địa phương e dè, ngại cấp phép cho các dự án hóa chất đơn lẻ.
Theo đó, mục tiêu Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2040 nêu cụ thể, phát triển ngành công nghiệp hoá chất theo mô hình của “Kinh tế tuần hoàn” cơ cấu sản phẩm phù hợp, hoàn chỉnh từ sản xuất nguyên liệu đến sản phẩm; phát triển các tổ hợp hoá chất tập trung, trung tâm logistics về hoá chất nhằm tạo ra chuỗi giá trị gia tăng trong toàn ngành trên cơ sở lựa chọn vị trí địa - kinh tế, chính trị thuận lợi, có lợi thế về nguồn nguyên liệu; phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế, chú trọng đến năng lực của các nhà đầu tư trong nước mà đặc biệt là những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có năng lực.
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA CHẤT HƯỚNG ĐẾN KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhà nước với vai trò định hướng và hoạch định chính sách phát triển tuần hoàn cho ngành công nghiệp hóa chất
Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, Nhà nước giữ vai trò chủ thể định hướng chiến lược và hoạch định chính sách vĩ mô cho sự phát triển của ngành công nghiệp hóa chất theo hướng tuần hoàn. Thông qua các chiến lược quốc gia như Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2040, Chiến lược tăng trưởng xanh, và Chiến lược quốc gia về kinh tế tuần hoàn, Nhà nước đã bước đầu xác lập định hướng phát triển hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Việc hoàn thiện khung pháp lý và thể chế quản lý hóa chất theo hướng tích hợp yêu cầu của KTTH là yếu tố then chốt. Nhà nước cần ban hành và thực thi các chính sách cụ thể về sản xuất sạch hơn, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), tiêu chuẩn hóa quy trình tái chế và quản lý chất thải hóa chất, nhằm tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định cho doanh nghiệp đầu tư và đổi mới công nghệ theo hướng bền vững.
Nhà nước với vai trò thúc đẩy đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm hóa học xanh
Một trong những động lực quan trọng giúp ngành công nghiệp hóa chất chuyển đổi sang mô hình tuần hoàn là ứng dụng công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện môi trường. Nhà nước cần phát huy vai trò nhà kiến tạo phát triển thông qua các hoạt động sau:
- Tăng cường đầu tư công và hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu – triển khai (R&D) trong lĩnh vực hóa chất xanh, vật liệu tái chế, hóa chất sinh học và năng lượng tái tạo;
- Hình thành các quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ phát triển công nghệ sạch hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành tiếp cận công nghệ tuần hoàn;
- Khuyến khích hợp tác công – tư (PPP) trong các dự án đổi mới công nghệ, trung tâm nghiên cứu hóa chất bền vững, cũng như mô hình khu công nghiệp sinh thái và cụm liên kết ngành tuần hoàn.
Nhờ vậy, Nhà nước trở thành người dẫn dắt tiến trình chuyển giao công nghệ xanh và thúc đẩy sự hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực hóa chất – nền tảng cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở tầm quốc gia.
Nhà nước với vai trò điều tiết, giám sát và bảo đảm an toàn môi trường trong hoạt động hóa chất
Ngành công nghiệp hóa chất tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm, sự cố hóa chất và phát thải độc hại, do đó, Nhà nước phải đóng vai trò điều tiết và kiểm soát rủi ro môi trường một cách chặt chẽ, dựa trên nguyên tắc “phòng ngừa hơn khắc phục”. Cụ thể:
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quản lý hóa chất, bao gồm quy định về phân loại, ghi nhãn, lưu trữ, vận chuyển và xử lý chất thải hóa học;
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về hóa chất và bảo vệ môi trường, gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với kết quả phát thải và sử dụng năng lượng, tài nguyên;
- Ứng dụng công nghệ số trong quản lý hóa chất, hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về hóa chất và chất thải nguy hại, phục vụ cho công tác dự báo, cảnh báo sớm và ra quyết định chính sách hiệu quả.
Thông qua cơ chế giám sát khoa học và minh bạch, Nhà nước góp phần giảm thiểu rủi ro môi trường, bảo đảm quá trình tuần hoàn tài nguyên hóa chất được vận hành an toàn và hiệu quả.
Nhà nước với vai trò tạo lập cơ chế khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia kinh tế tuần hoàn
Doanh nghiệp là trung tâm của hoạt động sản xuất và đổi mới, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sang mô hình tuần hoàn đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, rủi ro cao và cần thời gian dài. Do đó, vai trò hỗ trợ của Nhà nước là vô cùng quan trọng, thể hiện ở việc:
- Áp dụng chính sách ưu đãi thuế, tín dụng xanh và miễn giảm phí môi trường cho các dự án sản xuất hóa chất tái chế, hóa chất sinh học, và công nghệ xử lý chất thải tuần hoàn;
- Ban hành các cơ chế thị trường carbon, đấu giá hạn ngạch phát thải, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới mô hình kinh doanh gắn với phát thải thấp;
- Hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho tái chế, xử lý chất thải và logistics ngược, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chuỗi tuần hoàn nguyên liệu hóa chất.
Ngoài ra, Nhà nước cần đẩy mạnh truyền thông, đào tạo và nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn trong cộng đồng doanh nghiệp, giúp họ nhận thấy lợi ích dài hạn về năng suất, hiệu quả và hình ảnh thương hiệu.
Nhà nước với vai trò thúc đẩy hợp tác quốc tế và hội nhập trong lĩnh vực hóa chất tuần hoàn
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, KTTH là xu hướng chung của thế giới, đặc biệt trong ngành hóa chất – một ngành có chuỗi cung ứng xuyên biên giới. Nhà nước Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế thông qua:
- Tham gia và thực hiện các hiệp định, công ước quốc tế về quản lý hóa chất và môi trường như Công ước Stockholm, Rotterdam, Basel;
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế, viện nghiên cứu và doanh nghiệp nước ngoài để chuyển giao công nghệ sạch, chia sẻ dữ liệu và kinh nghiệm quản lý tuần hoàn;
- Xây dựng cơ chế chính sách hội nhập phù hợp với tiêu chuẩn xanh quốc tế, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu của ngành hóa chất Việt Nam.
Qua đó, Nhà nước đóng vai trò “cầu nối” giữa khu vực trong nước và quốc tế, giúp ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam từng bước tiệm cận mô hình phát triển bền vững theo chuẩn mực toàn cầu.
Như vậy, Nhà nước giữ vai trò đa chiều và bao quát trong việc thúc đẩy mối quan hệ giữa ngành công nghiệp hóa chất và phát triển kinh tế tuần hoàn – từ định hướng, điều tiết, hỗ trợ đến giám sát và hợp tác quốc tế. Sự tham gia chủ động, nhất quán và sáng tạo của Nhà nước chính là nhân tố quyết định để bảo đảm quá trình chuyển đổi xanh – tuần hoàn trong ngành hóa chất diễn ra hiệu quả, an toàn và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Ngành công nghiệp hóa chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vừa là nguồn cung ứng nguyên vật liệu thiết yếu cho nhiều lĩnh vực sản xuất, vừa là một trong những ngành tiềm ẩn rủi ro cao về môi trường và an toàn hóa chất. Trong bối cảnh chuyển đổi sang mô hình KTTH, việc phát triển ngành hóa chất theo hướng xanh – tuần hoàn – bền vững trở thành yêu cầu tất yếu nhằm giảm thiểu phát thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên và nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Bài viết đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa ngành công nghiệp hóa chất và phát triển KTTH mang tính tác động hai chiều: một mặt, KTTH tạo động lực thúc đẩy ngành hóa chất đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, mở rộng thị trường cho các sản phẩm thân thiện môi trường; mặt khác, sự phát triển bền vững của ngành hóa chất lại góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của KTTH thông qua việc đóng kín vòng đời vật chất, tăng cường tái chế, tái sử dụng, và thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị xanh trong toàn bộ nền kinh tế.
Trong tiến trình này, vai trò của Nhà nước mang tính quyết định. Nhà nước không chỉ là chủ thể kiến tạo môi trường thể chế và chính sách thuận lợi mà còn là người điều tiết, giám sát và định hướng sự phát triển của ngành theo hướng tuần hoàn. Các chính sách về đầu tư, thuế, khoa học công nghệ, tiêu chuẩn môi trường, cũng như các cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo cần được hoàn thiện đồng bộ, gắn với việc tăng cường năng lực quản lý hóa chất và thúc đẩy hợp tác công – tư.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa ngành công nghiệp hóa chất và kinh tế tuần hoàn không chỉ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền công nghiệp Việt Nam mà còn là nền tảng quan trọng để hướng tới phát triển kinh tế xanh và bền vững. Để đạt được điều này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, trong đó Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt, định hướng và hỗ trợ, bảo đảm cho quá trình chuyển đổi tuần hoàn diễn ra hiệu quả, an toàn và toàn diện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Hóa chất (Bộ Công thương). Báo cáo Tổng kết thực hiện nhiệm vụ và triển khai nhiệm vụ hàng năm.
2. Cục Hóa chất (Bộ Công thương). Phát triển hóa học xanh - xu hướng với công nghiệp hóa chất tại Việt Nam, http://www.cuchoachat.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-hoa-hoc-xanh-xu-huong-voi-cong-nghiep-hoa-chat-tai-viet-nam.html
3. Ellen Macarthur Foundation (2025). What is the meaning of a circular economy and what are the main principles? https://www.ellenmacarthurfoundation.org/topics/circular-economy-introduction/overview
4. Quốc hội (2025). Luật Hóa chất số 69/2025/QH15, ngày 14/6/2025.
5. Trần Thị Xuân Anh (2022). Kinh tế tuần hoàn: cơ hội và thách thức đối với phát triển bền vững tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 242 (7/2022).
6. Thủ tướng Chính phủ (2022). Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021-2030, ban hành theo Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022.
7. Thủ tướng Chính phủ (2022). Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040, ban hành theo Quyết định số 726/QĐ-TTg ngày 16/6/2022.
Ngày nhận bài: 27/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 30/9/2025; Ngày duyệt đăng: 9/10/2025 |