Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng và nhu cầu phát triển kỹ năng công nghệ thông tin từ khía cạnh an toàn thông tin mạng của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc trang bị và phát triển kỹ năng công nghệ thông tin cho sinh viên là yêu cầu tất yếu, mang tính chiến lược đối với giáo dục đại học.

ThS. Nguyễn Thị Huệ

Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới

Tóm tắt

Dựa trên kết quả khảo sát 228 sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng và nhu cầu phát triển kỹ năng công nghệ thông tin từ khía cạnh an toàn thông tin mạng. Kết quả cho thấy, mặc dù sinh viên có mức độ tự tin khá cao về khả năng bảo mật và áp dụng tương đối tốt các biện pháp bảo vệ thiết bị số, nhưng họ vẫn phải đối mặt với các vấn đề rủi ro trên môi trường mạng, như: lừa đảo trực tuyến, khó khăn trong việc phân biệt tin thật - giả hay bị mất thông tin tài khoản. Đáng chú ý, các rủi ro này có sự khác biệt rõ rệt theo giới tính. Từ những trải nghiệm thực tế này, sinh viên thể hiện nhu cầu cao đối với việc được đào tạo các kỹ năng như: an toàn trên không gian mạng, giải quyết vấn đề và kỹ năng công nghệ tương lai như ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tồn tại và thành công trong kỷ nguyên số.

Từ khóa: Công nghệ thông tin, kỹ năng công nghệ thông tin, sinh viên đại học, Nghị quyết 57

Summary

Based on a survey of 228 students at Vietnam National University, Hanoi, this study analyzes the current status and demand for information technology skill development from the perspective of cybersecurity. The findings indicate that although students report relatively high confidence in their security capabilities and demonstrate competent application of protective measures for digital devices, they still face significant online risks such as phishing scams, difficulties distinguishing between real and fake information, and account information breaches. Notably, these risks exhibit clear gender-based differences. Drawing on these real-life experiences, students express a strong need for training in areas such as online safety, problem-solving, and emerging technology competencies, particularly the application of artificial intelligence, to thrive and succeed in the digital era.

Keywords: Information technology, information technology skills, university students, Resolution 57

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang định hình lại toàn diện nền kinh tế toàn cầu, công nghệ thông tin (CNTT) đã trở thành động lực cốt lõi, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đối với giáo dục đại học, việc trang bị và phát triển kỹ năng CNTT cho sinh viên không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành một yêu cầu tất yếu, mang tính chiến lược. Đây là nền tảng thiết yếu không chỉ để nâng cao hiệu quả học tập và nghiên cứu, mà còn là lợi thế cạnh tranh giúp sinh viên tự tin gia nhập thị trường lao động toàn cầu hóa và số hóa.

Nhận thức sâu sắc về vấn đề có tính chiến lược này, Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 của Đảng đã nhấn mạnh việc “đẩy mạnh CNTT và truyền thông trong dạy và học” và điều này ngày càng được cụ thể hóa trong giai đoạn gần đây qua các chính sách về chuyển đổi số (CĐS) quốc gia. Điều này khẳng định việc phát triển kỹ năng CNTT cho người học không chỉ là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục mà còn là một trụ cột quan trọng để xây dựng nguồn nhân lực cho xã hội số.

Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) là đại học hàng đầu Việt Nam, có chương trình đào tạo được cập nhật thường xuyên theo xu hướng phát triển của công nghệ và triết lý lấy người học làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, chủ động của người học. ĐHQGHN đã đẩy mạnh CĐS, góp phần thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, thúc đẩy CĐS và hội nhập quốc tế trong giáo dục. Trường đã triển khai “mô hình giáo dục toàn diện - góp phần xây dựng thế hệ công dân toàn cầu” với mục tiêu phát triển toàn diện về kỹ năng, thể chất, tư duy, năng lực, phẩm chất cá nhân và phẩm chất nghề nghiệp (Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2023).

Xuất phát từ thực tiễn cần thiết đào tạo kỹ năng CNTT cho sinh viên cũng như vai trò của ĐHQGHN trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đất nước, nghiên cứu tiến hành nghiên cứu, đánh giá kỹ năng CNTT của sinh viên tại trường ĐHQGHN trong bối cảnh CĐS, nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng. Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát với 228 sinh viên (104 nam và 124 nữ) tại ĐHQGHN từ tháng 3 đến tháng 4/2025 bằng phương pháp trực tuyến. Nội dung khảo sát được thiết kế và gửi đến sinh viên qua Google form để gửi đến sinh viên. Kết quả khảo sát được phân tích bằng phần mềm SPSS phiên bản 20 để đánh giá kỹ năng CNTT của sinh viên từ khía cạnh an toàn thông tin mạng.

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM

Thực trạng đào tạo nhân lực CNTT thời gian qua

Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định trong quá trình CĐS và sự phát triển của Việt Nam trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển nguồn nhân lực CNTT là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình CĐS quốc gia. Nhiều chiến lược, chương trình và đề án đã được triển khai nhằm nâng cao kỹ năng, năng lực và chất lượng nguồn nhân lực, như: Chương trình CĐS Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực CĐS quốc gia; Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045…

Mới đây, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã tạo ra một cú hích mạnh mẽ, kêu gọi một sự “đột phá” trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia. Nghị quyết này không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, mà còn ngầm định một yêu cầu cấp bách về việc phải có một đội ngũ lao động tay nghề cao để vận hành và thúc đẩy hệ sinh thái đó. Đảng đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao, xem đây là yếu tố then chốt để tạo ra sự "đột phá" và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân lực có khả năng làm chủ các công nghệ cốt lõi.

Nhằm đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao có trình độ CNTT, hiện nay, Việt Nam đã có nhiều cơ sở đào tạo chính quy về CNTT ở các trình độ từ trung cấp, cao đằng, đại học và sau đại học (Bảng). Năm 2023, Việt Nam có 165 trường đại học có đào tạo CNTT, điện tử viễn thông và an toàn thông tin, với tổng số 89.691 sinh viên, trong đó có 66.599 sinh viên máy tính và CNTT, 10.481 sinh viên các ngành kỹ thuật liên quan, 11.023 sinh viên các ngành công nghệ liên quan, 1.588 sinh viên các ngành toán, thống kê liên quan. CNTT ở bậc đại học có số chỉ tiêu tuyển sinh lớn nhất cả nước, chiếm tới 10% tổng số học sinh tốt nghiệp PTTH năm 2023. Tỷ lệ thực tuyển đào tạo đại học ngành CNTT, điện tử viễn thông, an toàn thông tin cũng rất cao, lên tới 84%. Chỉ tiêu tuyển sinh ngành CNTT tăng trung bình 20%/năm trong vòng 4 năm từ 2019 đến 2023. Số lượng sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT và các ngành liên quan năm 2023 là 68.977 trong đó có 50.172 tốt nghiệp ngành máy tính và CNTT (Bộ Thông tin và Truyền thông, nay là Bộ Khoa học và Công nghệ, 2024).

Nhu cầu về nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghiệp CNTT toàn cầu tiếp tục gia tăng. Việt Nam nổi lên như một trung tâm cung cấp nhân lực CNTT cho các thị trường như Nhật Bản, Bắc Mỹ với lực lượng kỹ sư trẻ, sáng tạo và được đào tạo bài bản. Trong năm 2023, tổng số lượng lao động CNTT là 1.504.414 người, chiếm 2,8% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2024).

Bảng: Thực trạng đào tạo đại học ngành CNTT ở Việt Nam giai đoạn 2018-2023

Đào tạo đại học ngành CNTT

2018-2019

2019-2020

2020-2021

2021-2022

2022-2023

Tổng số trường đại học (trường)

237

237

242

242

239

Số trường đại học có đào tạo CNTT, điện tử viễn thông và an toàn thông tin (trường)

149

158

158

168

165

Tỷ lệ trường đại học có đào tạo CNTT, điện tử viễn thông và an toàn thông tin/Tổng số trường đại học (%)

63,14

65,83

65

69,4

69

Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông, 2024

Thực trạng phổ cập kỹ năng CNTT

Dữ liệu về mức độ phổ cập kỹ năng CNTT tại Việt Nam trong năm 2024 cho thấy, tỷ lệ trung bình người dân cả nước có kỹ năng CNTT là 46,8%. Kết quả này cho thấy, nỗ lực phổ cập đã có kết quả ban đầu nhưng vẫn còn một chặng đường dài để đạt được mục tiêu xã hội số toàn diện mà Chính phủ đề ra.

Xét về mức độ kỹ năng, tỷ lệ người dân có kỹ năng CNTT ở mức cơ bản mới đạt 46,5%. Điều này cho thấy phần lớn những người có kỹ năng CNTT hiện nay chủ yếu dừng lại ở mức độ cơ bản (sử dụng các ứng dụng văn phòng, email, trình duyệt web...). Tỷ lệ người dân có kỹ năng CNTT ở mức độ nâng cao chỉ chiếm chưa tới một nửa (20,3%) so với kỹ năng cơ bản. Điều này cho thấy sự thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng CNTT ở trình độ cao, có khả năng làm chủ các công nghệ phức tạp, đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0.

Hình 1: Tỷ lệ người dân biết kỹ năng về công nghệ thông tin năm 2024 (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2024

Xét về khu vực, vẫn còn khoảng cách số giữa thành thị và nông thôn. Tỷ lệ người dân thành thị có kỹ năng CNTT cao hơn đáng kể so với mức trung bình cả nước và cao hơn gần 1,5 lần so với khu vực nông thôn. Sự chênh lệch này cho thấy vẫn còn khoảng cách số rất lớn, phản ánh sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng công nghệ, cơ hội giáo dục và môi trường ứng dụng CNTT. Đây là rào cản lớn cho mục tiêu CĐS đồng bộ và toàn diện ở cấp quốc gia.

Xét về giới tính, vẫn có sự chênh lệnh về trình độ kỹ năng CNTT giữa nam và nữ. Nam giới đang có lợi thế hơn trong việc tiếp cận và làm chủ các kỹ năng công nghệ.

Xét về nhóm tuổi, nhóm từ 19-24 tuổi (ở bậc đại học) có kỹ năng CNTT chiếm tỷ lệ cao nhất là 82,4%, cao gần gấp đôi so với mức trung bình cả nước và vượt xa tất cả các nhóm khác. Điều này cho thấy hệ thống giáo dục đại học đang làm tốt vai trò trang bị kỹ năng CNTT cho thế hệ trẻ, tạo ra một nguồn nhân lực tương lai có nền tảng CNTT vững chắc để gia nhập thị trường lao động. Đây là tài sản quý giá và là nền tảng vững chắc cho khát vọng kinh tế số của Việt Nam.

KỸ NĂNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CỦA SINH VIÊN ĐHQGHN NHÌN TỪ KHÍA CẠNH AN TOÀN THÔNG TIN MẠNG

Mức độ bảo mật thông tin cá nhân và quản lý mật khẩu trên các thiết bị số

Kết quả khảo sát sinh viên tại ĐHQGHN cho thấy một bức tranh khá tích cực về nhận thức an toàn thông tin mạng ở những khía cạnh cơ bản của sinh viên. Về cơ bản, sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của an toàn thông tin trên không gian mạng, nhưng vẫn còn bộc lộ những lỗ hổng trong việc áp dụng các phương pháp quản lý mật khẩu trên các thiết bị số (Hình 2). Cụ thể, 97,4% sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của việc tạo mật khẩu mạnh - kết hợp đầy đủ các yếu tố, bao gồm: chữ hoa, chữ thường, số và ký tự đặc biệt. Điều này cho thấy các kiến thức nền tảng về an toàn thông tin đã được sinh viên áp dụng rất hiệu quả. Tỷ lệ rất cao sinh viên đã bật xác thực 2 yếu tố cho các tài khoản quan trọng, như email và mạng xã hội cho thấy tín hiệu tích cực, sinh viên không chỉ dựa vào mật khẩu, mà còn chủ động bổ sung thêm một lớp bảo vệ quan trọng, giúp chống lại các cuộc tấn công chiếm đoạt tài khoản hiệu quả. Đa số sinh viên (85,5%) có thói quen cài đặt mật khẩu trên tất cả các thiết bị số của mình, điều này giúp ngăn chặn việc truy cập trái phép khi thiết bị số bị mất cắp hoặc thất lạc.

Hình 2: Cách thức quản lý mật khẩu trên thiết bị số của sinh viên (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Kết quả khảo sát

Mặc dù hơn một nửa sinh viên đã sử dụng các ứng dụng quản lý mật khẩu, nhưng vẫn còn gần 40% chưa tiếp cận với công cụ này. Các ứng dụng quản lý mật khẩu được xem là giải pháp tối ưu để tạo và lưu trữ các mật khẩu mạnh, giúp ngăn chặn hiệu quả các cuộc tấn công mạng. Việc không sử dụng công cụ này cho thấy nhiều sinh viên có thể vẫn đang tự ghi nhớ hoặc sử dụng mật khẩu giống nhau ở nhiều tài khoản, điều này có thể tạo ra rủi ro bảo mật lớn. Do đó, các chương trình đào tạo về an toàn thông tin mạng cho sinh viên cần chuyển trọng tâm từ việc làm thế nào để tạo mật khẩu mạnh sang làm thế nào để quản lý mật khẩu mạnh một cách an toàn và hiệu quả.

Các rủi ro trên môi trường số

Khi được hỏi về các vấn đề cụ thể đã trải qua trong 6 tháng gần nhất (chọn nhiều đáp án), câu trả lời của sinh viên cho thấy họ gặp phải khá nhiều vấn đề về an toàn thông tin mạng (Hình 3).

Hình 3: Các vấn đề mà sinh viên gặp phải trong 6 tháng qua trên môi trường mạng (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Kết quả khảo sát

Hầu hết sinh viên (88,2%) bị làm phiền bởi cuộc gọi và tin nhắn rác. Con số này cho thấy đa số thông tin cá nhân của sinh viên liên quan đến số điện thoại đều bị rò rỉ, khiến thông tin của họ dễ dàng bị các đối tượng liên hệ cho mục đích quảng cáo hoặc lừa đảo. Đáng chú ý, có gần một nửa sinh viên đã từng đối mặt với lừa đảo trực tuyến cũng như gặp khó khăn trong việc phân biệt thông tin thật - giả, cho thấy lỗ hổng về kỹ năng kiểm chứng và đánh giá thông tin của sinh viên. Điều này không chỉ gây thiệt hại về tài chính, mà còn ảnh hưởng đến nhận thức và niềm tin khi tiếp nhận thông tin trên môi trường mạng. Tương tự, gần một nửa sinh viên cho biết bị nghiện internet và thiết bị số (43,6%), phản ánh thực tế, một tỷ lệ lớn sinh viên đang phải vật lộn với việc kiểm soát thời gian sử dụng internet và các thiết bị công nghệ. Việc này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập, sức khỏe thể chất và các mối quan hệ xã hội của sinh viên.

Bên cạnh đó, sinh viên cũng phải đối mặt với các rủi ro về an ninh và bảo mật, khi có khoảng một phần tư sinh viên đã bị mất thông tin tài khoản, hay nói cách khác, cứ 4 sinh viên thì có 1 người từng bị mất quyền kiểm soát tài khoản. Mặc dù sinh viên có nhận thức tốt về việc tạo mật khẩu mạnh nhưng họ vẫn có thể trở thành nạn nhân của các cuộc tấn công mạng, phần mềm độc hại.

Ngoài ra, sinh viên cũng đối mặt với các rủi ro khi tương tác trên môi trường trực tuyến khi có 16,1% sinh viên cho biết từng bị quấy rối trực tuyến và 13,3% là nạn nhân của bắt nạt trực tuyến. Bắt nạt trên mạng/bắt nạt trực tuyến là việc bắt nạt trên các công cụ kỹ thuật số, có thể diễn ra trên phương tiện mạng xã hội, nền tảng nhắn tin, chơi game và điện thoại di động. Đó là hành vi lặp đi lặp lại nhằm mục đích khiến những người bị nhắm mục tiêu sợ hãi, tức giận hoặc xấu hổ (UNICEF, 2021). Mặc dù tỷ lệ này thấp hơn so với lừa đảo hay tin giả nhưng vẫn cho thấy một bộ phận không nhỏ sinh viên phải chịu đựng các tổn thương về mặt tâm lý và xã hội. Điều này thể hiện rằng, các vấn đề không còn dừng lại ở nguy cơ tiềm tàng, mà đã trở thành những vấn đề thực tế có ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn của sinh viên. Tỷ lệ lớn sinh viên gặp khó khăn khi không phân biệt được thông tin thật - giả cũng phản ánh thách thức lớn trong thời đại số, khi kỹ năng tư duy phản biện và kiểm chứng thông tin chưa theo kịp tốc độ lan truyền của nội dung trên mạng.

Hình 4: Các vấn đề sinh viên gặp phải trong 6 tháng qua trên mạng phân theo giới tính (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Kết quả khảo sát

Xét theo giới tính, kết quả khảo sát cho thấy, nữ sinh viên có xu hướng báo cáo gặp phải hầu hết các vấn đề an ninh mạng có tỷ lệ cao hơn so với nam sinh viên, đặc biệt là các mối đe dọa liên quan đến lừa đảo và an toàn thông tin. Nữ sinh viên đối mặt với lừa đảo trực tuyến cao hơn tới 21,5 điểm phần trăm so với nam sinh viên. Điều này cho thấy nữ sinh viên đang là mục tiêu chính của các chiến dịch lừa đảo. Phụ nữ và trẻ em là những đối tượng nhạy cảm và dễ bị tổn thương trên mạng xã hội; là đối tượng của nhiều hành vi gây mất an toàn, như lừa đảo, mua bán người, bắt nạt, dụ dỗ (Nguyễn Thị Thanh Thủy và Đỗ Văn Trọng, 2023). Do đó, UN Women (2018) nhấn mạnh, phụ nữ và trẻ em cần được bảo đảm an toàn khi họ tham gia môi trường không gian mạng. Bên cạnh đó, nữ sinh viên (50,8%) cũng gặp khó khăn với tin giả nhiều hơn nam sinh viên (37,4%). Tỷ lệ nữ sinh viên bị mất tài khoản (30%) cao hơn đáng kể so với nam sinh viên (18,7%), tỷ lệ nữ sinh viên bị làm phiền (92,5%) bởi cuộc gọi và tin nhắn rác vẫn cao hơn 10 điểm phần trăm so với nam sinh viên (82,4%). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của UNICEF (2022), khi cho thấy, khi phụ nữ và trẻ em gái tham gia vào thế giới trực tuyến, họ phải đối mặt với nguy cơ bị bạo lực thường xuyên hơn nam giới.

Nhu cầu nâng cao kỹ năng CNTT của sinh viên

Trong số các kỹ năng CNTT, 2 kỹ năng mà sinh viên mong muốn học nhất là Giải quyết vấn đề (98,2%) và Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào học tập (97,8%) với tỷ lệ gần như tuyệt đối cho thấy một sự thay đổi trong tư duy của sinh viên. Họ không chỉ tìm kiếm kiến thức chuyên ngành đơn thuần, mà khao khát được trang bị kỹ năng tư duy bậc cao - một kỹ năng mềm cốt lõi, có thể áp dụng trong mọi lĩnh vực. Đồng thời, họ nhận thức rõ ràng rằng, AI không còn là một khái niệm tương lai, mà là một công cụ hiện hữu, thiết yếu cần phải làm chủ ngay lập tức để tối ưu hóa việc học tập.

Hình 5: Các kỹ năng mà sinh viên muốn học khi học đại học (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Kết quả khảo sát

An toàn trên không gian mạng là kỹ năng tiếp theo đa số sinh viên muốn theo học. Đây không phải là mong muốn bộc phát, mà là hệ quả trực tiếp của những vấn đề mà sinh viên phải đối mặt trong 6 tháng vừa qua, liên quan đến lừa đảo trực tuyến, bị mất thông tin tài khoản và bị làm phiền bởi cuộc gọi và tin nhắn rác.

Cuối cùng, sinh viên hiểu rằng, môi trường làm việc hiện đại đòi hỏi khả năng cộng tác hiệu quả trên các nền tảng số, do đó, việc học hỏi kỹ năng giao tiếp và hợp tác trong môi trường số là quan trọng. Việc làm chủ kỹ năng sáng tạo nội dung số và khai thác thông tin dữ liệu là điều mong mỏi của rất nhiều sinh viên hiện nay. Do đó, những gì sinh viên mong muốn từ giáo dục đại học không còn là những bài giảng lý thuyết đơn thuần, mà còn là những nhu cầu rõ ràng về trang bị kỹ năng từ tư duy phản biện, kỹ năng ứng dụng AI, cho đến khả năng tự vệ trên không gian mạng và kỹ năng cộng tác số.

Hình 6: Nhu cầu học kỹ năng của sinh viên theo năm học (%)

Kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số nhìn từ khía cạnh an toàn thông tin mạng(*)

Nguồn: Kết quả khảo sát

Khi xem xét các nhu cầu theo năm học, tác giả nhận thấy rằng, có sự khác biệt về nhu cầu học kỹ năng trong tiến trình từ năm thứ nhất đến năm cuối. Ở năm thứ nhất, sinh viên vừa bước vào một môi trường học tập mới, họ nhận thức rõ nhu cầu cần có các kỹ năng nền tảng để học tập hiệu quả (khai thác thông tin), tự bảo vệ mình trong môi trường số (an toàn mạng) và làm chủ các công cụ công nghệ tiên tiến như AI. Do đó, họ thể hiện nhu cầu khá đồng đều ở tất cả các kỹ năng, từ Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (97,1%), Giải quyết vấn đề (95,7%), An toàn trên không gian mạng (94,3%) và Khai thác thông tin và dữ liệu (94,3%).

Năm thứ hai là giai đoạn sinh viên bắt đầu đi sâu vào các môn học chuyên ngành, đòi hỏi sự hợp tác trong các dự án nhóm và khả năng giải quyết các bài toán phức tạp. Điều này lý giải cho nhu cầu tuyệt đối về kỹ năng hợp tác giải quyết vấn đề.

Sang năm thứ ba là giai đoạn sinh viên chuẩn bị cho các kỳ thực tập và bắt đầu định hướng sự nghiệp, do đó nhóm sinh viên này có nhu cầu tuyệt đối về học kỹ năng về an toàn mạng, phản ánh sự nhận thức cao hơn về bảo mật trong môi trường số; đồng thời, kỹ năng giải quyết vấn đề tiếp tục được xem là rất quan trọng.

Vào năm cuối đại học, khi đối mặt với ngưỡng cửa tốt nghiệp và thị trường lao động, sinh viên nhận ra tầm quan trọng của việc phải là một ứng viên toàn diện; hiểu rằng giao tiếp, hợp tác và khả năng tự bảo vệ mình là không thể thiếu trong môi trường làm việc số, do đó thể hiện mong muốn cao đối với việc khai thác dữ liệu và sáng tạo nội dung. Nhu cầu này cũng cho thấy đây là những lợi thế cạnh tranh quan trọng của sinh viên khi đi xin việc.

Kết quả nghiên cứu này gợi ý rằng, các chương trình đào tạo kỹ năng tại trường đại học cần được thiết kế một cách linh hoạt, có sự tùy biến theo từng giai đoạn để đáp ứng đúng và kịp thời nhu cầu của sinh viên, thay vì một chương trình chung cho cả 4 năm.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy bức tranh đa chiều và nhiều màu sắc về thực trạng kỹ năng CNTT của sinh viên. Mặc dù sinh viên ĐHQGHN thể hiện mức độ tự tin khá cao về khả năng bảo mật thông tin nhưng thực tế có nhiều sinh viên đã phải đối mặt với lừa đảo trực tuyến và cứ 4 người thì có 1 người từng bị mất thông tin tài khoản. Điều này cho thấy sự tự tin hiện có không đủ để bảo vệ họ trước các mối đe dọa ngày càng tinh vi. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nữ sinh viên là mục tiêu chính của các cuộc tấn công lừa đảo (cao hơn nam sinh viên 21,5 điểm phần trăm) và các hình thức tấn công dựa trên thông tin. Hơn nữa, nhu cầu về các kỹ năng CNTT không tĩnh tại mà có sự thay đổi theo các năm học.

Từ những phát hiện trên, nghiên cứu đề xuất, các chương trình phát triển kỹ năng CNTT cho sinh viên tại ĐHQGHN cần không chỉ tập trung vào các kỹ năng kỹ thuật cơ bản, mà còn hướng tới xây dựng các chương trình đào tạo toàn diện, hướng tới việc nâng cao kỹ năng tư duy phản biện để ứng phó với tin giả, kỹ năng phòng vệ trước các kịch bản lừa đảo trên môi trường mạng cũng như kỹ năng quản lý danh tính số an toàn. Đặc biệt, các chương trình này cần được thiết kế một cách linh hoạt, có tính đến sự khác biệt về giới tính và mục tiêu năm học để đáp ứng đúng và trúng nhu cầu cấp thiết của sinh viên, qua đó trang bị cho họ một bộ công cụ vững chắc để không chỉ tồn tại mà còn thành công trong kỷ nguyên số.

(*) Nghiên cứu là sản phẩm của nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở “Thực trạng kỹ năng công nghệ thông tin của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số” theo Hợp đồng số 02/HĐKH-NCCN ngày 6/1/2025. Mã số: NCCN/NV/2025-02.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2018). Tài liệu những điều cần biết về nghề công nghệ thông tin. Nxb Thông tin và Truyền thông.

3. Bộ Thông tin và truyền thông (2024). Sách trắng công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam 2024. Nxb Thông tin và Truyền thông.

4. Chính phủ (1993). Nghị quyết số 49/CP về Phát triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm 90.

5. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê

6. Đại học Quốc gia Hà Nội (2023). Báo cáo thường niên năm 2023.

7. Nguyễn Thị Thanh Thủy và Đỗ Văn Trọng (2023). An toàn cho phụ nữ và trẻ em trên không gian mạng. Tạp chí Quản lý nhà nước, 329, 71-75.

8. Quốc hội (2006). Luật Công nghệ thông tin.

9. Quốc hội (2015). Luật an toàn thông tin mạng.

10. Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học.

11. UN Women (2018). Chương trình phụ nữ, hòa bình & an ninh (mạng) ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

12. UNICEF (2021). Bắt nạt trực tuyến là gì - Làm thế nào để ngăn chặn điều này?

13. UNICEF (2022). Bạo lực phụ nữ và trẻ em gái qua mạng và CNTT-TT trong đại dịch COVID-19.

Ngày nhận bài: 6/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 8/9/2025; Ngày duyệt đăng: 15/9/2025