Kinh tế tư nhân với việc tiếp cận nguồn lực: Thực trạng và gợi ý chính sách

Kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

PGS.TS. Phạm Thị Hồng Điệp

Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

ThS. Bùi Tất Tố

Khoa Kinh tế, Đại học Bình Dương

Tóm tắt

Nghiên cứu phân tích thực trạng tiếp cận các nguồn lực của kinh tế tư nhân ở Việt Nam, bao gồm: vốn, đất đai, công nghệ và nguồn nhân lực. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế cũng như những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh phát triển mới về tiếp cận nguồn lực của kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả thực thi, giúp kinh tế tư nhân phát triển theo hướng bền vững, hiện đại và khẳng định vai trò động lực của nền kinh tế.

Từ khoá: Doanh nghiệp tư nhân, kinh tế tư nhân, thể chế

Summary

The study examines the current state of private sector access to key resources in Viet Nam, including capital, land, technology, and human resources. The results identify the strengths, limitations, and emerging requirements in the new development context related to resource accessibility for the private economy. Based on these findings, the authors propose several solutions to improve mechanisms and policies, enhance implementation effectiveness, and promote the sustainable and modern development of the private sector, thereby reinforcing its role as a driving force of the national economy.

Keywords: Private enterprises, private sector, institutions

GIỚI THIỆU

Kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng khẳng định vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết chiến lược, đặc biệt là Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, nhằm tạo môi trường phát triển thuận lợi và khuyến khích tinh thần tự lực, tự cường của khu vực này trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Với đóng góp lớn vào GDP, việc làm và đổi mới sáng tạo, KTTN đang trở thành trụ cột nâng cao năng lực nội sinh và sức chống chịu của nền kinh tê.

Tuy nhiên, quá trình phát triển của KTTN vẫn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ và nhân lực, làm giảm sức cạnh tranh và cản trở mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng tiếp cận nguồn lực, nhận diện điểm mạnh - yếu và đề xuất giải pháp chính sách phù hợp với tinh thần các Nghị quyết: 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị là cần thiết, để KTTN phát huy đầy đủ vai trò động lực, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững và tự cường của Việt Nam.

THỰC TRẠNG TIẾP CẬN CÁC NGUỒN LỰC CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM

Thực trạng hoàn thiện thể về tiếp cận nguồn lực

Tiếp cận vốn

Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ về tín dụng nhằm tạo điều kiện cho KTTN tiếp cận vốn vay, thông qua các quy định về lãi suất ưu đãi, cơ chế bảo lãnh tín dụng và chương trình tín dụng đặc thù. Về lãi suất, theo Thông tư 14/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017 quy định phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữ tổ chức tín dụng với khách hang và các quyết định điều hành của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại được quyền tự thỏa thuận lãi suất với khách hàng đối với các khoản vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước vẫn áp dụng lãi suất trần đối với cho vay ngắn hạn phục vụ lĩnh vực ưu tiên, bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), hiện dao động quanh mức 4,5%-5,5%/năm (theo Quyết định 1812/QĐ-NHNN năm 2022); trong khi đó ở một số quốc gia là ở mức 3,5% cho một số ngành kinh tế. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chia sẻ mức lãi vay đang dao động ở 10%-12%/năm (Tố Uyên, 2024). Nếu doanh nghiệp tư nhân (DNTN), hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm thì đó là dự án vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG) áp dụng từ 2025 (Theo Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN).

Hiện nay, thủ tục vay vốn vẫn còn phức tạp, yêu cầu nhiều giấy tờ và thời gian xét duyệt kéo dài, khiến nhiều DNTN khó tiếp cận. Mặc dù các ngân hàng thương mại đã triển khai nhiều gói tín dụng ưu đãi, nhưng tỷ lệ giải ngân thực tế cho DNNVV vẫn ở mức thấp. Hiện nay, chỉ khoảng 30%-35% DNNVV có thể tiếp cận tín dụng ngân hàng bằng tài sản thế chấp hiện có, còn lại phần lớn gặp khó khăn do thiếu tài sản đảm bảo (VCCI, 2025).

Nhà nước đã ban hành chính sách hỗ trợ tín dụng thông qua việc thành lập các quỹ, như: quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, quỹ phát triển doanh nghiệp... Năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV với chức năng cho vay, tài trợ, hỗ trợ tăng cường năng lực cho DNNVV. Năm 2020, Quỹ này đã công bố giảm lãi suất cho vay về mức 2,16%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 4%/năm đối với cho vay trung, dài hạn cho DNNVV. Tuy nhiên, các quỹ này chủ yếu cho các DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp chưa hưởng tới các doanh nghiệp lớn.

Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán (bao gồm cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp) đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho KTTN tại Việt Nam. Luật Chứng khoán 2019 cùng với các nghị định hướng dẫn, như Nghị định 155/2020/NĐ-CP đã tạo khung pháp lý rõ ràng cho hoạt động phát hành, niêm yết và giao dịch cổ phiếu, trái phiếu. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, cùng với các sàn giao dịch HOSE, HNX và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đóng vai trò điều tiết và giám sát hoạt động thị trường, đảm bảo tính minh bạch, công khai và an toàn cho nhà đầu tư. Năm 2024, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 443.458 nghìn tỷ đồng (~17,48 tỷ USD), tăng 32,7% so với năm trước đó (VCCI, 2025). Thông qua phát hành cổ phiếu ra công chúng hoặc trái phiếu doanh nghiệp, các DNTN có thể tiếp cận nguồn vốn lớn phục vụ đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh mà không phụ thuộc hoàn toàn vào tín dụng ngân hàng.

Nhìn chung, việc tiếp cận thị trường vốn vẫn là thách thức với nhiều DNTN, đặc biệt là DNNVV, do yêu cầu khắt khe về minh bạch tài chính và quản trị doanh nghiệp. Một phần nguyên nhân đến từ quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu và thiếu minh bạch trong báo cáo tài chính, khiến họ không đáp ứng được các điều kiện niêm yết hoặc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, chi phí tuân thủ, kiểm toán, tư vấn phát hành cũng khá cao, làm giảm động lực tham gia thị trường. Ngoài ra, tâm lý e ngại bị giám sát công khai sau niêm yết cũng là rào cản khiến nhiều DNTN vẫn đứng ngoài cuộc chơi.

Tiếp cận đất đai và tài nguyên

Việt Nam có hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh giao đất, cho thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định ở Luật Đất đai 2013 (sửa đổi 2024), cùng các Nghị định hướng dẫn như Nghị định 69/2009/NĐ‑CP về thu hồi, bồi thường, giá đất…

Thủ tục hành chính về đất đai tại Việt Nam vẫn còn phức tạp, thiếu minh bạch, tình trạng "sân sau", ưu tiên cho các dự án lớn, doanh nghiệp nhà nước khiến DNTN khó tiếp cận đất sạch để sản xuất kinh doanh. Trong số nguyên nhân khó khăn trong tiếp cận đất đai, DNTN cho biết: năm 2024, 68% DNTN cho là thời gian giải quyết kéo dài quá quy định (so với 64% năm 2023), 59% cho rằng thủ tục xác định giá trị quyền sử dụng đất mất nhiều thời gian (tăng so với 44%), 51% phản ánh cán bộ tiếp nhận không hướng dẫn chi tiết (so với 46%), 49% cho rằng quy trình giải quyết không đúng nội dung văn bản/quy định (tăng so với 46%) và 41% cho biết giá đất thực tế khác biệt khung giá quy định (so với 37% năm 2023) (VCCI, 2024). Mặc dù Luật Đất đai 2024 quy định công khai giá chuyển nhượng, quyền cho thuê đất, quy trình đền bù… theo hướng minh bạch hơn, tuy nhiên “Luật Đất đai năm 2013 và 2024 vẫn còn thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình và thiếu nhất quán, dẫn đến nhiều thách thức” (Liên hợp quốc, 2024).

Tiếp cận thông tin và công nghệ

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ DNTN tiếp cận công nghệ và thông tin hiện đại, như: Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi 2017), Luật Công nghệ cao (2008), Luật Hỗ trợ DNNVV (2017) và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030, các Quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia (NATIF). Các chính sách này nhằm khuyến khích doanh nghiệp đổi mới quy trình sản xuất, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường và áp dụng công nghệ số.

Tuy nhiên, khả năng tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ mới còn hạn chế: chỉ khoảng 29% doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới sản phẩm hoặc quy trình trong năm 2022, tăng nhẹ so với mức 26% năm 2021 (Nhật Kim Anh, Cảnh Chí Hoàng, 2023). Điều này phản ánh một tỷ lệ rất lớn doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận hoặc áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất, quá trình triển khai đổi mới vẫn rất hạn chế và không phổ biến. Mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ, như: Trung tâm Hỗ trợ Khởi nghiệp Sáng tạo Quốc gia (NSSC) và Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia (NIC), nghiên cứu phản ánh rằng, hệ thống trung tâm hỗ trợ tại địa phương vẫn rất hạn chế, với quy mô nhỏ, hoạt động manh mún và khó tiếp cận đối với phần lớn DNNVV.

DNTN Việt Nam nhìn chung vẫn sử dụng công nghệ ở mức trung bình hoặc lạc hậu. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn đầu tư, thiếu thông tin định hướng công nghệ và thiếu năng lực tiếp nhận kỹ thuật cao. Mặc dù khoảng 48,8% doanh nghiệp từng triển khai ít nhất một giải pháp số, chỉ có 2,2% doanh nghiệp thực sự làm chủ công nghệ (Trương Quang Huy, Nguyễn Thị Thu Vân, Nguyễn Tiến Thành, 2025).

Tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao

Việt Nam đã xây dựng khung luật và hướng dẫn rõ ràng về giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và phát triển nhân lực gắn với doanh nghiệp. Luật GDNN (sửa đổi 2014, có hiệu lực từ 2017) cùng với chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao quốc gia quy định rõ việc đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo tại doanh nghiệp, tạo liên kết chặt giữa trường nghề - doanh nghiệp - người lao động. Luật cũng thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạch định chương trình đào tạo nhằm phù hợp nhu cầu thực tế. Đồng thời, chiến lược quốc gia yêu cầu cải thiện chất lượng giáo viên, đổi mới công nghệ đào tạo theo mô hình trường nghề thông minh, tăng cường mô hình đào tạo gắn thực hành thực tế tại doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trên thực tế hiên nay, Việt Nam vẫn thiếu hụt kỹ năng và tồn tại chênh lệch trong chất lượng đào tạo. Hệ thống GDNN còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, nhiều học viên chọn học nghề như lựa chọn cuối cùng, trong khi doanh nghiệp yêu cầu đầu ra cao về tay nghề và thái độ làm việc. Thiếu hụt lao động có kỹ năng chuyên sâu và chất lượng đào tạo chưa tương ứng khiến doanh nghiệp - đặc biệt là DNTN - gặp khó khăn trong việc nâng cao năng suất và cạnh tranh. Khi lực lượng lao động trẻ thiếu kỹ thuật thực tế, doanh nghiệp phải đầu tư thêm chi phí đào tạo nội bộ hoặc thuê lao động nước ngoài. Rào cản này đặc biệt nặng nề trong các ngành công nghệ cao, như: phần mềm, tự động hóa, sản xuất điện tử, nơi DNTN vốn hạn chế về nguồn lực thường gặp khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài có trình độ.

Đánh giá chung về thể chế tiếp cận nguồn lực nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Những điểm mạnh

Nhà nước đã ban hành khung pháp lý và chính sách hỗ trợ đa dạng để hỗ trợ DNTN tiếp cận các nguồn lực. Sự hiện diện của các văn bản luật, nghị định và các quỹ hỗ trợ thể hiện rõ định hướng chiến lược của Nhà nước trong việc đồng hành với KTTN.

Nhà nước đã hình thành và phát triển thị trường chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp) ngày càng hoàn thiện, tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn thay thế cho tín dụng ngân hàng truyền thống.

Việt Nam đã ban hành các chương trình quốc gia về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, cũng như khung luật về GDNN và chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là nền tảng quan trọng giúp DNTN từng bước nâng cao năng suất, tiếp cận công nghệ mới và chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng nhu cầu sản xuất.

Những điểm yếu và thách thức

Mặc dù có nhiều gói hỗ trợ và cơ chế bảo lãnh, phần lớn DNTN - đặc biệt là DNNVV - vẫn khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, do thủ tục phức tạp, yêu cầu tài sản thế chấp cao, thời gian xét duyệt dài. Lãi suất thực tế trên thị trường vẫn ở mức cao (10%-12%/năm), vượt xa mức ưu đãi được công bố, làm tăng chi phí vốn và giảm sức cạnh tranh.

Dù quy mô phát hành trái phiếu, cổ phiếu tăng, nhưng đa số DNTN - nhất là DNNVV - chưa tham gia, do hạn chế về minh bạch tài chính, quy mô nhỏ, thiếu năng lực quản trị. Chi phí phát hành và tuân thủ cao cũng là rào cản, khiến kênh vốn này vẫn chủ yếu dành cho các doanh nghiệp lớn.

Các quy định pháp luật tuy được cải thiện, nhưng thực tiễn vẫn tồn tại tình trạng thiếu minh bạch, cơ chế ưu tiên cho DNNN hoặc “nhà đầu tư sân sau”, dẫn đến bất bình đẳng trong phân bổ đất đai. Tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh vướng mắc trong thủ tục hành chính về đất đai, xác định giá trị quyền sử dụng đất, hay sự khác biệt giữa giá thực tế và khung giá Nhà nước vẫn ở mức rất cao.

Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đổi mới quy trình/sản phẩm còn rất thấp (chỉ khoảng 29% năm 2022). Đa phần doanh nghiệp vẫn dùng công nghệ trung bình hoặc lạc hậu, trong khi năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới rất hạn chế. Các trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo địa phương còn manh mún, chưa tạo được mạng lưới đủ mạnh để lan tỏa công nghệ tới DNTN.

Chất lượng lao động qua đào tạo nghề chưa gắn sát nhu cầu doanh nghiệp, kỹ năng chuyên sâu thiếu hụt, thái độ làm việc còn hạn chế. DNTN phải tốn thêm chi phí đào tạo lại, trong khi khó cạnh tranh để thu hút nhân tài ở các ngành công nghệ cao. Đây là rào cản lớn đối với việc nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của khu vực tư nhân.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN

Để tháo gỡ những hạn chế trong tiếp cận nguồn lực và tạo động lực phát triển cho KTTN, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp có tính hệ thống, kết hợp cả phía Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức trung gian. Cụ thể:

Thứ nhất, về tín dụng: Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo lãnh tín dụng, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV, đồng thời khuyến khích các ngân hàng thương mại thiết kế gói tín dụng đặc thù, phù hợp với đặc điểm sản xuất - kinh doanh của từng ngành nghề. Bên cạnh đó, việc minh bạch hóa lãi suất cho vay và đơn giản hóa thủ tục tín dụng phải được coi là ưu tiên nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt và giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Về phát triển thị trường vốn, cần có lộ trình cải cách để mở rộng cửa cho DNNVV tham gia, thông qua việc giảm thiểu chi phí phát hành, hỗ trợ tư vấn, kiểm toán và tăng cường vai trò của các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư để làm cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư. Nhà nước cũng cần thiết kế cơ chế giám sát phù hợp, cân bằng giữa yêu cầu minh bạch và khả năng thích ứng của doanh nghiệp nhỏ, qua đó thúc đẩy họ mạnh dạn niêm yết hoặc phát hành trái phiếu.

Thứ hai, về đất đai, cải cách thủ tục hành chính cần đi liền với việc số hóa quy trình giao đất, cho thuê đất và công khai minh bạch thông tin giá đất, quỹ đất. Chính quyền địa phương cần hạn chế cơ chế chỉ định hoặc “sân sau” trong phân bổ đất đai, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát độc lập nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình. Việc quy hoạch và phát triển các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao cần dành tỷ lệ hợp lý quỹ đất cho DNTN, đặc biệt là DNNVV, thay vì chỉ ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn lớn. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng khu công nghiệp, từ đó giảm chi phí thuê đất và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận mặt bằng sản xuất sạch, thuận lợi.

Thứ ba, trong lĩnh vực tiếp cận công nghệ và thông tin, cần tăng cường các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thông qua ưu đãi thuế cho hoạt động nghiên cứu - phát triển (R&D) cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chuyển đổi số. Hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp tại địa phương cần được củng cố, kết nối thành mạng lưới quốc gia để tạo hiệu ứng lan tỏa rộng hơn, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận công nghệ mới và chuyên gia tư vấn. Ngoài ra, Nhà nước có thể triển khai các chương trình hợp tác quốc tế nhằm chuyển giao công nghệ, hỗ trợ DNTN tiếp cận các tiêu chuẩn sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn và ESG, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

Thứ tư, đối với nguồn nhân lực, cần đẩy mạnh liên kết giữa cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp, bảo đảm chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thị trường. Việc khuyến khích mô hình “đào tạo kép” - vừa học tại trường nghề, vừa thực tập tại doanh nghiệp - sẽ góp phần nâng cao kỹ năng thực hành và thái độ làm việc của người học. Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo tại chỗ, đặc biệt là đào tạo các ngành công nghệ cao, thông qua ưu đãi thuế, đồng tài trợ chi phí đào tạo và tạo cơ chế thu hút chuyên gia, nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài. Đối với người lao động, cần nâng cao nhận thức về học tập suốt đời và trang bị kỹ năng mềm, kỹ năng số để thích ứng với yêu cầu sản xuất hiện đại.

KẾT LUẬN

KTTN Việt Nam đã phát triển đáng kể, nhưng vẫn gặp hạn chế về vốn, đất đai, công nghệ và nhân lực. Chính sách hỗ trợ còn bất cập, tạo khoảng cách giữa chủ trương và thực tiễn. Trong bối cảnh mới, cần hoàn thiện cơ chế tiếp cận nguồn lực theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW (2025) cùng các Nghị quyết của Bộ Chính trị; đồng thời cải cách thể chế, tăng minh bạch, giám sát xã hội và phát huy vai trò các tổ chức trung gian. Khi được triển khai hiệu quả, KTTN sẽ trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

(*) Nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ đề tài KT25.04 “Chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế tự cường của Việt Nam” của trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.

Tài liệu tham khảo:

1. Liên hợp quốc (2024). Vietnam Common Country Analysis 2024 Update. file:///C:/Users/Administrator/Downloads/5294c373-de01-4c39-8bdb-8370558b3959_CCA%202024%20Update30Nov2024FinalRCclean%20(2).pdf.

2. Nhật Kim Anh, Cảnh Chí Hoàng (2023). Giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. https://tapchikinhtetaichinh.vn/giai-phap-thuc-day-doi-moi-sang-tao-o-doanh-nghiep-viet-nam-hien-nay.html.

3. Tố Uyên (2024). Doanh nghiệp mong giảm lãi suất vay vốn để vực dậy sản xuất, kinh doanh. https://thoibaotaichinhvietnam.vn/doanh-nghiep-mong-giam-lai-suat-vay-von-de-vuc-day-san-xuat-kinh-doanh-147355.html.

4. Trương Quang Huy, Nguyễn Thị Thu Vân, Nguyễn Tiến Thành (2025). Chuyển đổi số và những yêu cầu mới trong phát triển nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. https://kinhtevadubao.vn/chuyen-doi-so-va-nhung-yeu-cau-moi-trong-phat-trien-nguon-nhan-luc-tai-cac-doanh-nghiep-nho-va-vua-viet-nam-31910.html.

5. VCCI (2024). Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam - Đánh giá chất lượng điều hành kinh tế để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp năm 204. https://www.vcci.com.vn/publications/pci-2024-chi-so-nang-luc-canh-tranh-cap-tinh-cua-viet-nam.

6. VCCI (2025). Cần có biện pháp thúc đẩy sự lạc quan của doanh nghiệp. https://vietnamnews.vn/economy/1693678/measures-needed-to-boost-business-optimism-vcci.html.

7. Viện chiến lược phát triển (2023). Báo cáo 2023 500 DNTN lớn nhất Việt Nam (VPE500). https://vids.mpi.gov.vn/Uploads/OldWebResources/Includes/NewsDetail/9_2023/dt_19920231654_top%20vpe500%202023%20web.pdf.

Ngày nhận bài: 16/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 1/10/2025; Ngày duyệt đăng: 14/10/2025