Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng căn cứ pháp lý cho Hệ thống Thống kê quốc gia

Nghiên cứu phân tích nguyên tắc và kinh nghiệm quốc tế về Thống kê chính thức, từ đó đưa ra khuyến nghị cụ thể để phát triển Thống kê chính thức tại Việt Nam theo hướng hiện đại hóa

ThS. Nguyễn Thị Trang

Cục Thống kê - Bộ Tài Chính

Email: trangnt@nso.gov.vn

Tóm tắt

Nghiên cứu phân tích nguyên tắc và kinh nghiệm quốc tế về Thống kê chính thức. Từ đó, đưa ra khuyến nghị cụ thể để phát triển Thống kê chính thức tại Việt Nam theo hướng hiện đại hóa, với những trọng tâm gồm: tinh gọn cơ quan sản xuất Thống kê chính thức, luật pháp hóa tính độc lập chuyên môn của cơ quan Thống kê, luật hóa quyền thu thập dữ liệu hành chính và sổ đăng ký thống kê cho mục đích thống kê; thành lập cơ chế quản trị, điều phối cơ sở dữ liệu quốc gia, tích hợp dữ liệu phi truyền thống vào Hệ thống Thống kê quốc gia để giảm gánh nặng cho người trả lời. Cùng với đó là việc thiết lập mạng lưới điều tra viên thống kê chuyên nghiệp, tối ưu về số lượng và chất lượng, bảo đảm dữ liệu đầy đủ, kịp thời, chính xác và tuân thủ nguyên tắc bảo mật của Thống kê chính thức.

Từ khóa: Kinh nghiệm quốc tế, luật, thống kê, thu thập dữ liệu

Summary

The study analyzes international principles and experiences in official statistics and provides specific recommendations to modernize Viet Nam’s official statistical system. Key proposals include streamlining the organizational structure of statistical agencies; legally ensuring the professional independence of statistical authorities; granting the right to collect administrative data and use statistical registers for statistical purposes; and establishing a national mechanism for data governance and coordination. The study also suggests integrating non-traditional data sources into the national statistical system to ease the burden on respondents. Furthermore, it recommends developing a professional network of statistical interviewers, optimized in both number and quality, to ensure data collection is complete, timely, accurate, and in compliance with the confidentiality principles of official statistics.

Keywords: International experience, law, statistics, data collection

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy ở cả Trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, mặc dù nguồn lực tài chính có hạn, nhưng nhu cầu về số liệu thống kê chính xác, kịp thời và đáng tin cậy phục vụ quản lý, hoạch định chính sách và đánh giá phát triển kinh tế, xã hội, môi trường ngày càng gia tăng. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) mở ra cơ hội khai thác các nguồn dữ liệu mới bên cạnh điều tra thống kê như: dữ liệu hành chính, dữ liệu lớn, viễn thám; đồng thời, nhu cầu dữ liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là dữ liệu về các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội để Hệ thống Thống kê quốc gia có những bước chuyển mình đột phá, đồng hành cùng đất nước và dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thực hiện theo các nguyên tắc, chuẩn mực, thông lệ, khuyến nghị đã được Liên hợp quốc ban hành như: Nguyên tắc của Thống kê chính thức, Luật mẫu về Thống kê chính thức, Hướng dẫn hiện đại hóa Luật Thống kê. Đồng thời, tác giả nghiên cứu các quy định trong hiến pháp, luật về thống kê của các quốc gia có chỉ số hiệu quả thống kê (SPI) cao, thông qua nghiên cứu, phân tích văn bản pháp lý bằng ngôn ngữ chính thức của các quốc gia (Tây Ban Nha, Ba Lan, Estonia,…), ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Việt, tập trung vào các điều, khoản liên quan đến Hệ thống Thống kê quốc gia, chương trình thống kê, điều tra thống kê, thu thập dữ liệu điều tra và điều tra viên thống kê.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nguyên tắc của Thống kê chính thức

Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng cơ bản của Thống kê chính thức đối với chương trình phát triển quốc gia và toàn cầu. Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc đã thông qua 10 nguyên tắc cơ bản của Thống kê chính thức vào năm 1994, được Hội đồng Kinh tế và Xã hội tái khẳng định và phê chuẩn trong Nghị quyết 2013/21 ngày 24/7/2013. Các nguyên tắc gồm: (1) Phù hợp, khách quan và tiếp cận bình đẳng; (2) Tiêu chuẩn nghề nghiệp, nguyên tắc khoa học và đạo đức nghề nghiệp, (3) Trách nhiệm giải trình và tính minh bạch; (4) Ngăn ngừa việc sử dụng sai lệch; (5) Nguồn số liệu chính thức; (6) Bảo mật; (7) Cơ sở pháp lý; (8) Phối hợp quốc gia; (9) Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế; (10) Hợp tác quốc tế.

Luật mẫu về Thống kê chính thức

Quy trình xây dựng Luật

Luật mẫu về Thống kê chính thức được xây dựng và hoàn thiện trong 2 năm bởi Ủy ban Kinh tế Liên hợp quốc về Châu Âu (UNECE), nằm trong Dự án Giai đoạn 9 của cơ chế tài trợ nội bộ của Liên hợp quốc (UNDA) giai đoạn 2014-2016, nhằm hỗ trợ các quốc gia Đông Âu, Kavkaz và Trung Á củng cố cơ sở pháp lý và thể chế cho Hệ thống Thống kê quốc gia. UNECE cùng với Hiệp hội Thương mại tự do Châu Âu (EFTA) đã thành lập ban biên tập Luật gồm các chuyên gia quốc tế đến từ: UNECE, EFTA, Cơ quan Thống kê của Liên minh Châu Âu, các chuyên gia đến từ các quốc gia trong khu vực và được biên soạn bằng 3 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga). Luật mẫu được thông qua tại Hội nghị Thống kê viên Châu Âu (CES) và được ban hành vào năm 2016.

Nội dung chính của Luật mẫu về Thống kê chính thức

Luật mẫu về Thống kê chính thức gồm các nội dung chính sau: (1) Định nghĩa về Thống kê chính thức, phân biệt với thông tin hành chính; (2) Định nghĩa và phân định các đơn vị/cơ quan sản xuất Thống kê chính thức; (3) Nguyên tắc độc lập về chuyên môn của các tổ chức và đơn vị tổ chức sản xuất Thống kê chính thức; (4) Vai trò của Văn phòng Thống kê quốc gia là cơ quan sản xuất Thống kê chính thức chủ yếu và là cơ quan điều phối Hệ thống Thống kê quốc gia; (5) Lập kế hoạch chiến lược và hoạt động, chú trọng nhu cầu hiện tại và phát sinh của người dùng; (6) Quyền thu thập dữ liệu và tiếp cận dữ liệu hành chính cũng như các nguồn dữ liệu khác; (7) Nguyên tắc và thủ tục xử lý dữ liệu thống kê bảo mật; (8) Quản lý chất lượng, có tính đến quan điểm của người sử dụng; (9) Nguyên tắc phổ biến Thống kê chính thức đến tất cả các nhóm người dùng liên quan.

Kết cấu và độ dài của Luật mẫu về Thống kê chính thức

Luật mẫu về Thống kê chính thức dài 44 trang, gồm 14 Chương và 38 Điều; có phần ghi chú giải thích cho các Chương I, II, III, IV, V, VI, được trình bày từ trang 21 đến trang 44.

Bảng: Kết cấu Luật mẫu về Thống kê chính thức

Nội dung

Số Điều

Chương I - Mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của Luật

02

Chương II - Nguyên tắc cơ bản và định nghĩa về Thống kê chính thức

02

Chương III - Tổ chức Hệ thống Thống kê quốc gia

03

Chương IV - Hội đồng Thống kê và các Cơ quan tư vấn khác

02

Chương V - Phối hợp Hệ thống Thống kê quốc gia và Chương trình thống kê

05

Chương VI - Thu thập dữ liệu

05

Chương VII - Bảo mật thông tin thống kê

06

Chương VIII - Chất lượng của Thống kê chính thức

02

Chương IX - Phổ biến thông tin thống kê

02

Chương X - Dịch vụ thống kê

02

Chương XI - Hợp tác quốc tế

02

Chương XII - Các hành vi vi phạm

02

Chương XIII - Mối quan hệ với các văn bản pháp luật khác

01

Chương XIV - Hiệu lực thi hành

01

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Các điểm quan trọng được ghi chú và giải thích trong Luật mẫu

Luật sử dụng thuật ngữ “Thống kê chính thức” thay vì “Thống kê nhà nước” hoặc “Thống kê quốc gia” nhằm nhấn mạnh phạm vi thống kê được điều chỉnh và các yêu cầu về chất lượng mà Thống kê chính thức phải tuân thủ. Thuật ngữ “Thống kê chính thức” cung cấp cho người sử dụng thông tin về vị thế pháp lý và chất lượng của thông tin được cung cấp. Sử dụng thuật ngữ Thống kê chính thức trong các Chương trình Thống kê (Điều 1, Khoản 1.2).

Luật áp dụng đối với mọi dữ liệu được sử dụng trong quá trình sản xuất Thống kê chính thức, bao gồm cả dữ liệu thu thập từ nguồn hành chính và các nguồn dữ liệu thứ cấp khác. Mọi dữ liệu, bất kể nguồn gốc hay loại hình, đều được xử lý theo cùng một nguyên tắc và được bảo vệ bởi nguyên tắc bảo mật thống kê (Điều 1, Khoản 1.3).

Chỉ những đơn vị thuộc cơ quan quốc gia sản xuất Thống kê chính thức mới được coi là một phần của Hệ thống Thống kê quốc gia, chứ không phải toàn bộ tổ chức mà đơn vị đó trực thuộc. Do đó, đơn vị này cần có vai trò độc lập rõ ràng với phần còn lại của tổ chức (Điều 2, Khoản 2.1).

Cơ quan Thống kê quốc gia xây dựng chương trình thống kê phải tham vấn đối tượng cung cấp thông tin, đảm bảo rằng gánh nặng trả lời không quá lớn (Điều 2, Khoản 2.2).

Các đơn vị cung cấp dữ liệu hành chính được xem là một bên của Luật và có nghĩa vụ cung cấp dữ liệu cần thiết cho Thống kê chính thức. Các đơn vị này cũng có thể được đưa vào điều tra thống kê với vai trò là đối tượng cung cấp thông tin (Điều 2, Khoản 2.3).

Tính độc lập chuyên môn đối với các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan quản lý hoặc hành chính, cũng như đối với các lợi ích tư nhân là điều kiện tiên quyết để sản xuất ra các thống kê chất lượng cao và đảm bảo được niềm tin của người sử dụng và người cung cấp thông tin. Các nhà hoạch định chính sách và chính phủ cần công nhận thẩm quyền của Hệ thống Thống kê quốc gia trong việc công bố thông tin mà không cần phê duyệt trước. Tính độc lập chuyên môn đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý vững chắc cho Cơ quan Thống kê quốc gia và các cơ quan sản xuất Thống kê chính thức khác (Điều 3, Khoản 3.1).

Cơ quan Thống kê quốc gia hoạt động độc lập về chuyên môn, thường trực Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch nước đối với các vấn đề ngoài phạm vi bảo đảm tính độc lập chuyên môn. Một phương thức tổ chức khác là Cơ quan Thống kê quốc gia là cơ quan độc lập, đặt dưới sự giám sát của Hội đồng Thống kê chính thức gồm các thành viên được lựa chọn dựa trên năng lực chuyên môn. Trong mô hình này, Thủ tướng hoặc Chủ tịch nước bổ nhiệm thành viên Hội đồng Thống kê, bao gồm cả người đứng đầu Thống kê quốc gia (Điều 5, Khoản 5.1).

Cơ quan Thống kê quốc gia và các cơ quan sản xuất Thống kê chính thức khác phải bảo đảm tính độc lập chuyên môn trong nội bộ tổ chức mà họ trực thuộc và chỉ thực hiện hoặc chủ yếu thực hiện các hoạt động thống kê. Nếu Ngân hàng Trung ương có quyền tự chủ và thực hiện các thống kê chủ chốt, cần phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Thống kê quốc gia. Khi Ngân hàng Trung ương có đơn vị thống kê độc lập về chuyên môn và đơn vị này tuân thủ Luật Thống kê cũng như đáp ứng tiêu chí quy định, nên đưa vào danh sách cơ quan sản xuất thống kê chính thức (Điều 7, mục 7.1).

Hội đồng Thống kê đại diện rộng rãi cho người sử dụng số liệu, đa số thành viên đến từ ngoài chính phủ để bảo đảm tính độc lập chuyên môn, trừ trường hợp đại diện các cơ quan nghiên cứu. Các thành viên của Hội đồng Thống kê sẽ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm dựa trên đề xuất từ các cơ quan hoặc nhóm được đại diện và quy định rõ nhiệm kỳ của họ sẽ giới hạn trong bao nhiêu năm. Hội đồng Thống kê sẽ bầu ra từ trong số các thành viên một chủ tịch, người không phải là đại diện của cơ quan hành chính công. Các đơn vị vừa sản xuất vừa sử dụng số liệu (như Ngân hàng Trung ương) sẽ cử đại diện từ phía người sử dụng. Thống kê trưởng quốc gia là thành viên đương nhiên duy nhất không đại diện cho người sử dụng. (Điều 8).

Chương trình thống kê gồm: Chương trình nhiều năm nhằm định hướng phát triển chiến lược; Chương trình hàng năm liệt kê cụ thể hoạt động, bao gồm đầu vào và đầu ra thống kê. Chương trình thống kê phải thu thập đầy đủ nhu cầu của người sử dụng, rà soát số liệu sẵn có, nguồn dữ liệu hành chính và các nguồn khác; tham vấn người sử dụng dữ liệu giúp bảo đảm tính phù hợp; tham vấn đối tượng cung cấp thông tin giúp giảm gánh nặng trả lời và tham vấn đơn vị cung cấp dữ liệu hành chính giúp thống nhất về nội dung, thời điểm, phương thức cung cấp dữ liệu (Điều 11).

Chương trình thống kê cần bao gồm ước tính về gánh nặng trả lời, dựa trên ước tính số lượng và loại đối tượng cung cấp thông tin, cùng với đánh giá về thời gian trung bình cần thiết để hoàn thành mỗi bảng hỏi. Việc liên kết mỗi cuộc điều tra với các số liệu thống kê mà nó phục vụ nhằm thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu đã thu thập cho nhiều mục đích khác nhau trong toàn Hệ thống Thống kê quốc gia (Điều 13).

Yêu cầu tất cả nhân viên của bất kỳ cơ quan sản xuất Thống kê chính thức nào phải ký cam kết bảo mật bằng văn bản. Yêu cầu này cũng áp dụng đối với bất kỳ cá nhân nào bên ngoài Hệ thống Thống kê quốc gia có thể truy cập hoặc thu thập dữ liệu bảo mật, chẳng hạn như nhân viên từ các cơ quan khác tham gia tổng điều tra hoặc nhân viên của các nhà thầu phụ, những người thực hiện nghiên cứu khoa học được cấp quyền. Các cam kết bảo mật vẫn có hiệu lực ngay cả sau khi người đó không còn làm việc tại cơ quan sản xuất Thống kê chính thức. Mọi hành vi vi phạm các quy định về bảo mật theo Luật sẽ bị truy tố (Điều 25).

Kinh nghiệm từ các quốc gia có chỉ số hiệu quả thống kê cao

Kinh nghiệm từ Phần Lan

Phần Lan ban hành Luật về Thống kê chính thức vào năm 1995, ngay sau khi Liên hợp quốc ban hành Nguyên tắc của Thống kê chính thức. Tính đến năm 2024, Phần Lan đã trải qua 9 lần sửa đổi Luật Thống kê. Mỗi lần sửa đổi đều ban hành văn bản hợp nhất. Các Điều, Khoản bị bãi bỏ qua các lần vẫn được giữ trong Luật và ghi rõ là bãi bỏ, thứ tự các Điều, Khoản của Luật sửa đổi giữ nguyên với Luật 1995. Tên cơ quan Thống kê quốc gia trong Luật là Thống kê Phần Lan (SF).

Luật được ban hành theo 2 ngôn ngữ là Phần Lan và Thụy Điển. Theo văn bản hợp nhất của Luật Thống kê chính thức 2024, Luật gồm 9 Chương và 68 Điều. Nội dung gồm: (1) Quy định chung; (2) Tổ chức các cuộc điều tra thống kê của Thống kê chính thức; (2a) Sự phối hợp giữa Chủ tịch Cơ quan Thống kê Chính thức Trung ương với Chủ tịch Ngân hàng Quốc gia Ba Lan; (3) Cơ quan thống kê chính thức; (4) Nghĩa vụ thống kê và quyền tiếp cận dữ liệu; (4a) Xử lý dữ liệu cá nhân cho mục đích thống kê; (5) Cung cấp và lưu trữ thông tin thống kê; (5a) Hồ sơ phục vụ các cuộc điều tra thống kê; (6) Tiêu chuẩn phân loại và các sổ đăng ký chính thức quốc gia; (7) Tài trợ cho Thống kê chính thức; (8) Các quy định về xử phạt hành chính; (9) Các quy định chuyển tiếp và cuối cùng.

Liên quan đến điều tra viên thống kê, Điều 12 của Luật quy định: Nhân viên các cơ quan thống kê chính thức, điều tra viên tổng điều tra, điều tra viên thống kê và những người khác thực hiện công việc phục vụ cho thống kê chính thức có quyền truy cập trực tiếp vào dữ liệu, bắt buộc phải tuân thủ tuyệt đối bí mật thống kê và chỉ được phép thực hiện công việc đó sau khi đã nộp người đứng đầu cơ quan Thống kê chính thức một bản cam kết bằng văn bản với nội dung: “Tôi cam đoan sẽ thực hiện công việc phục vụ thống kê chính thức một cách tận tâm, phù hợp với đạo đức nghề nghiệp của người làm thống kê, và sẽ giữ bí mật các dữ liệu đơn vị mà tôi biết được trong quá trình thực hiện công việc, không tiết lộ cho bên thứ ba”. Điều 28 của Luật quy định: Các cuộc điều tra thống kê có thể được tiến hành với sự tham gia của điều tra viên tổng điều tra, điều tra viên thống kê. Nhiệm vụ của điều tra viên tổng điều tra là thu thập dữ liệu thống kê trong các cuộc tổng điều tra; nhiệm vụ của điều tra viên thống kê là thu thập dữ liệu trong các cuộc điều tra thống kê khác. Điều tra viên thống kê phải là người đã đủ tuổi thành niên, có trình độ học vấn tối thiểu là trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp, không có tiền án tiền sự và đang được hưởng đầy đủ quyền công dân. Điều tra viên thống kê có thể thực hiện nhiệm vụ trong khuôn khổ quan hệ lao động hoặc trên cơ sở hợp đồng dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, điều tra viên thống kê phải mang theo và xuất trình giấy chứng nhận do người đứng đầu cơ quan Thống kê cấp. Điều tra viên trong thời gian thực hiện các nhiệm vụ quy định được hưởng sự bảo vệ pháp lý áp dụng đối với công chức nhà nước (Điều 28).

Bên cạnh đó, Phần Lan thành lập Hội đồng Dân số Chính phủ gồm đại diện của các bộ, các tổ chức chính phủ, các viện, Thống kê Ba Lan, các nhà khoa học, các tổ chức phi chính phủ, Văn phòng Định cư và Người nước ngoài.

Kinh nghiệm từ Estonia

Estonia cũng đã ban hành “Luật Thống kê chính thức” và tên cơ quan Thống kê quốc gia trong Luật là Thống kê Estonia (ES). Năm 2022, Estonia đã sửa đổi Luật Thống kê chính thức 2010 theo hướng hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả khai thác nguồn dữ liệu và tránh trùng lặp thông tin thu thập, đặc biệt là khai thác và sử dụng sổ đăng ký thống kê và dữ liệu hành chính.

Một trong những điểm sửa đổi quan trọng là Thống kê Estonia đảm nhiệm vai trò cơ quan quản trị dữ liệu quốc gia, có nhiệm vụ điều phối quản trị dữ liệu tại Estonia. Cụ thể, Điều 9 quy định: Cơ quan Thống kê thực hiện Thống kê quốc gia, cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu và tiến hành giám sát nhà nước và hành chính theo các cơ sở và phạm vi được quy định trong Luật này (hiệu lực từ 1/4/2019). Cơ quan Thống kê thực hiện Thống kê quốc gia theo quy định của Luật; Phối hợp với Ngân hàng Trung ương - cơ quan sản xuất số liệu thống kê chính thức xây dựng Chương trình Thống kê quốc gia, trình Chính phủ; Điều phối việc thực hiện thống kê quốc gia; Điều phối quản trị dữ liệu và quản lý hệ thống phân loại; Cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu. Điều này giúp giảm gánh nặng cho các đơn vị cung cấp dữ liệu (doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân) khi không phải trả lời nhiều bảng hỏi trùng lặp.

Luật Thống kê chính thức 2022 gồm 9 Chương, 62 Điều với các nội dung về: (1) Quy định chung; (2) Tổ chức Thống kê Quốc gia; (3) Chương trình Thống kê quốc gia, công tác ngoài chương trình và báo cáo; (4) Tổng điều tra; (5) Thu thập và xử lý thống kê; (6) Lưu trữ dữ liệu và phổ biến thống kê chính thức; (7) Giám sát nhà nước và hành chính; (8) Trách nhiệm; (9) Điều khoản thi hành. Tương tự Phần Lan, các Điều, Khoản bị bãi bỏ sẽ ghi rõ trong Luật sửa đổi và số lượng, số thứ tự các Điều, Khoản không thay đổi so với Luật 2010.

Tại quốc gia này, bảo vệ dữ liệu cá nhân được quy định trong Hiến pháp và quy định cụ thể tại Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2018. Tháng 11/2020, nhóm chuyên gia đến từ các bộ, Văn phòng Chính phủ, Thanh tra bảo vệ dữ liệu và Thống kê Estonia đã biên soạn tài liệu về 6 giá trị nền tảng (nhân phẩm, tin cậy, trách nhiệm, minh bạch, bảo mật và cân bằng) và 19 nguyên tắc xử lý dữ liệu cá nhân có trách nhiệm.

Quốc gia này thành lập Hội đồng Thống kê gồm 13 thành viên, trong đó, mỗi cơ quan Thống kê Estonia, Ngân hàng Estonia, Thanh tra bảo vệ dữ liệu mỗi cơ quan 1 thành viên và 10 thành viên lựa chọn từ đại diện của người sử dụng và đối tượng cung cấp thông tin, các chuyên gia, nhà khoa học trong các lĩnh vực thống kê, nhân khẩu học, xã hội, môi trường và kinh tế, bao gồm nông nghiệp.

Kinh nghiệm từ các quốc gia khác

Tại Thụy Sĩ, thống kê được quy định tại Điều 65 của Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ 1999 sửa đổi. Theo đó, Liên bang thu thập các dữ liệu thống kê cần thiết về tình trạng và sự phát triển của dân số, kinh tế, xã hội, giáo dục, nghiên cứu, lãnh thổ và môi trường tại Thụy Sĩ. Để giảm thiểu tối đa chi phí thu thập số liệu, Liên bang có thể ban hành các quy định về việc hài hòa hóa và quản lý các sổ đăng ký chính thức

Tại Mexico, Điều 26B, Hiến pháp Chính trị của Mexico quy định: Nhà nước phải có Hệ thống Thông tin Thống kê và Địa lý Quốc gia, dữ liệu của hệ thống này được coi là chính thức. Đối với Liên bang, các cơ quan liên bang, các thành phố và các đơn vị hành chính lãnh thổ của thành phố Mexico, dữ liệu trong Hệ thống này là bắt buộc theo các điều khoản do luật định.

Tại Canada, Luật Thống kê được ban hành bằng 2 ngôn ngữ là Anh, Pháp. Tên cơ quan Thống kê của quốc gia này trong Luật là Thống kê Canada. Luật quy định rằng người đứng đầu cơ quan thống kê, theo hình thức được pháp luật cho phép, có thể tuyển dụng cán bộ giám sát điều tra, điều tra viên, nhân viên thu thập số liệu hoặc các cá nhân cần thiết khác để thu thập số liệu cho Thống kê Canada liên quan đến các hoạt động thương mại, công nghiệp, tài chính, xã hội và các hoạt động khác.

Tại Hàn Quốc, Luật Thống kê cập nhật và sửa đổi khá thường xuyên. Luật hiện hành số 20408, ban hành ngày 26/3/2024 gồm 7 Chương, 42 Điều và 15 phụ lục liên quan đến các lần sửa đổi Luật. Số thứ tự các Điều không thay đổi kể cả khi có Điều bị bãi bỏ. Luật Thống kê hiện hành quy định thành lập Ủy ban Thống kê quốc gia với số lượng không quá 30 người (Điều 5-2); Thành lập và vận hành sổ đăng ký thống kê cho từng lĩnh vực, chẳng hạn như dân số, nhà ở và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sổ đăng ký thống kê được lập trên cơ sở dữ liệu hành chính, dữ liệu thống kê, dữ liệu thu thập được qua điều tra thực địa và dữ liệu khác theo quy định của Sắc lệnh Tổng thống (Điều 5-3, Điều 26). Thành lập và vận hành trung tâm dữ liệu thống kê để hỗ trợ việc sản xuất số liệu thống kê của các cơ quan dịch vụ thống kê và nghiên cứu, phân tích... của người sử dụng số liệu thống kê (Điều 31-2). Yêu cầu về ủy quyền, ủy thác quy định tại Điều 37. Xử phạt đối với cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan đến từ chối hoặc cản trở hoặc trốn tránh việc cung cấp dữ liệu hoặc nộp dữ liệu sai hoặc tiết lộ bí mật, mức phạt cao nhất có thể lên đến 5 triệu Won.

Thu thập dữ liệu khu vực thể chế tài chính được tổ chức bài bản dựa trên sự phối hợp của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK), Cơ quan Thống kê Hàn Quốc (KOSTAT) và các cơ quan giám sát chuyên ngành như Ủy ban Dịch vụ Tài chính (FSC) và Cơ quan Giám sát Tài chính (FSS), giám sát gần như tất cả các tổ chức tài chính.

Đặt tên Luật và cơ quan Thống kê tại một số quốc gia

Đan Mạch đặt tên luật là “Luật về Thống kê Đan Mạch” và tên cơ quan Thống kê là “Thống kê Đan Mạch”. Tương tự như Ba Lan và Estonnia, Thụy Điển đặt tên luật là “Luật Thống kê chính thức” và tên cơ quan thống kê là “Thống kê Thụy Điển”, Canada và Hàn Quốc đặt tên là Luật Thống kê; Slovenia đặt tên là “Luật Thống kê quốc gia”. Tương đối khác biệt với các quốc gia khác, Mexico đặt tên là “Luật Hệ thống Thống kê và Thông tin địa lý quốc gia”; các chương trình thống kê quy định trong Luật cũng gắn Thống kê với Địa lý.

Ngoài ra, cẩm nang về Tổ chức Thống kê, ấn bản lần thứ ba của Liên hợp quốc hướng dẫn rằng, bên cạnh Hội đồng thống kê quốc gia, việc thành lập các Ủy ban tư vấn cũng được cho là hữu ích. Hội đồng thống kê nên có khoảng từ 10 đến 40 thành viên; độ dài của Luật Thống kê ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và khả năng áp dụng. Giải pháp tối ưu là dung hòa giữa tính chi tiết và tính khái quát để vừa đảm bảo bảo vệ pháp lý, vừa thích ứng với thay đổi.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, Liên hợp quốc và các quốc gia có chỉ số SPI cao đều nhấn mạnh thống kê chính thức trong luật và xây dựng luật gắn với các nguyên tắc cơ bản của Thống kê chính thức để phân biệt với thống kê phi chính thức và luật hóa tính độc lập về chuyên môn của Thống kê. Bên cạnh cơ quan Thống kê quốc gia, Ngân hàng Trung ương được xác định là cơ quan sản xuất thống kê chính thức quan trọng, được đề cập trong hầu hết các luật. Các trụ cột quan trọng trong luật là: Phối hợp Hệ thống Thống kê quốc gia, Thu thập dữ liệu và Bảo mật dữ liệu. Đặc biệt, tất cả các thành viên tham gia vào quá trình thu thập, xử lý số liệu thống kê chính thức đều phải cam kết bảo mật dữ liệu cá nhân bằng văn bản.

Khuyến nghị

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam như sau:

Thứ nhất, bổ sung các Điều, Khoản về bảo mật dữ liệu trong Hiến pháp; Bổ sung điều khoản về thống kê và thu thập dữ liệu cho mục đích thống kê trong Hiến pháp và quy định rõ các bộ/ngành phải có nghĩa vụ cung cấp dữ liệu hành chính phục vụ cho mục đích thống kê.

Thứ hai, rà soát, sửa đổi Hệ thống văn bản pháp lý, sửa đổi Luật Thống kê theo hướng hiện đại hóa theo các nguyên tắc của Thống kê chính thức, Luật mẫu về Thống kê chính thức. Quy trình này nên được thực hiện theo “Hướng dẫn hiện đại hóa Luật Thống kê” của UNECE năm 2018, cùng với tiếp thu, kế thừa thành công của các quốc gia khác, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Khi xây dựng, lấy ý kiến và ban hành, Luật cũng cần được xây dựng bằng ngôn ngữ quốc tế (ngôn ngữ Anh) và ngôn ngữ của các dân tộc có số dân lớn, đồng thời đánh giá tác động khi sửa đổi, ban hành Luật.

Thứ ba, tinh gọn Hệ thống Thống kê quốc gia. Cơ quan sản xuất Thống kê chính thức chỉ bao gồm cơ quan Thống kê quốc gia và Ngân hàng Nhà nước. Cùng với đó, cơ quan Thống kê quốc gia Việt Nam đổi tên thành “Thống kê Việt Nam”. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đổi tên thành “Ngân hàng Trung ương”, tương tự các quốc gia khác. Dữ liệu khu vực thể chế tài chính sẽ được thu thập từ hồ sơ hành chính của Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương), Ủy ban giám sát Tài chính và Điều tra mẫu của Thống kê để giảm tải gánh nặng điều tra và nâng cao chất lượng dữ liệu khu vực thể chế tài chính.

Thứ tư, bổ sung đơn vị cung cấp dữ liệu hành chính cấp thôn, cấp xã vào điều tra thống kê với vai trò là đối tượng cung cấp thông tin theo hướng dẫn của Khoản 2.3 Điều 2 Luật mẫu về Thống kê chính thức, đặc biệt đối với các cuộc điều tra thống kê lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với đó cần xem gắn điều tra thống kê với Hệ thống thông tin địa lý (GIS), xử lý và tích hợp dữ liệu viễn thám vào thống kê và bản đồ chính thức từ kinh nghiệm của Mexico.

Thứ năm, phát triển mạng lưới điều tra viên theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo tối ưu về số lượng và tốt về chất lượng thông qua đa dạng hóa hình thức hợp đồng và quan hệ lao động (nhân viên thu thập và xử lý số liệu chính thức, hợp đồng dài hạn, hợp đồng ngắn hạn). Trong bối cảnh chức danh “Văn phòng - Thống kê” - mắt xích quan trọng của Thống kê cấp xã không còn tồn tại, xem xét việc đồng bộ với hệ thống chính quyền các cấp, tính đến việc chuyển một phần thống kê cơ sở về thuộc biên chế cấp xã với vị trí là Thống kê kinh tế, Thống kê kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, một số khuyến nghị được đề xuất và cần lưu ý như: sửa đổi Chương trình Điều tra thống kê quốc gia thành Chương trình Thống kê quốc gia; trao quyền quản trị dữ liệu cơ sở dữ liệu quốc gia và điều phối Hệ thống Thống kê quốc gia cho Cơ quan Thống kê quốc gia, tương tự như Estonia; thành lập Hội đồng Thống kê như hầu hết các quốc gia và thành lập Ủy ban Dân số Chính phủ, tương tự Ba Lan; quy định về thành lập các Sổ đăng ký thống kê trong Luật; quy định, phân loại rõ loại điều tra viên (tổng điều tra, điều tra thống kê), vị trí pháp lý, tiêu chuẩn tuyển chọn, nhiệm vụ trước, trong và sau điều tra thống kê; tất cả những người tham gia vào thu thập, xử lý, phát triển phần mềm, quản trị dữ liệu phải ký cam kết bằng văn bản về việc bảo mật dữ liệu cá nhân; điều tra viên thống kê thực hiện các chương trình thống kê chính thức cần có thẻ “Điều tra viên thống kê chính thức” dưới dạng thẻ công vụ và quy định rõ về việc dùng thẻ.

(*) Nội dung này là hợp phần nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ 2024-2025: “Xây dựng mạng lưới điều tra viên thống kê Việt Nam”.

Tài liệu tham khảo:

1. Bundesversammlung (2024). Bundesverfassung der Schweizerischen Eidgenossenschaft, vom 18. April 1999, Stand: 1/1/2024.

2. Canada (1985). Statistics Act, R.S.C., 1985, c. S-19.

3. Congreso de la Unión (2025). Constitución Política De Los Estados Unidos Mexicanos, Última Reforma DOF 15/04/2025.

3. Riigikogu (2022). Riikliku statistika seadus, Teksti liik: terviktekst Redaktsiooni jõustumise kp: 21.03.2022.

4. Sverige (2018). Lag om ändring i lagen (2001:99) om den officiella statistiken Utfärdad den 26 april 2018.

5. UN (2003). Handbook of Statistical Organization, Third Edition.

6. UN (1994). Fundamental Principles of Official Statistics.

7. UN (2022). The Handbook on Management and Organization of Natianal Statistical Systems.

8. UNECE (2016). Generic Law on Official Statistics.

9. Unidad emisora (2015). Ley del Sistema Nacional de Información Estadística y Geográfica, Última reforma publicada DOF 18-12-2015.

Ngày nhận bài: 14/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/8/2025; Ngày duyệt đăng: 18/8/2025.