ThS. Hồ Thị Hằng - Bộ Tài chính
TS. Đặng Văn Hải - Kiểm toán Nhà nước
Tóm tắt
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngoài các loại hình kiểm toán truyền thống (kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động), cơ quan Kiểm toán nhà nước còn thực hiện các loại hình kiểm toán mới như kiểm toán điều tra, kiểm toán trách nhiệm kinh tế mang lại kết quả tích cực trong phòng, chống tham nhũng. Kinh nghiệm cho thấy, kiểm toán trách nhiệm kinh tế là một biện pháp quan trọng, mang tính đột phá nhằm ngăn ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong sạch, đủ đức, đủ tài, phục vụ phát triển đất nước. Nghiên cứu phân tích kinh nghiệm kiểm toán trách nhiệm kinh tế của Trung Quốc, qua đó đề xuất bài học cho Việt Nam.
Từ khóa: Kiểm toán trách nhiệm kinh tế, phòng, chống tham nhũng.
Summary
In many countries around the world, in addition to traditional types of audits (financial audits, compliance audits, operational audits), the State Audit agency (SAV) also carries out other types of audits. New technologies such as investigative auditing and economic responsibility auditing bring positive results in anti-corruption. Experience shows that economic responsibility auditing is an important and groundbreaking measure to prevent and fight against corruption, contributing to building a team of clean, virtuous and talented leaders, serving national development. The article provides information about China's economic responsibility audit experience and proposes lessons to move forward with implementing this type of audit in Vietnam.
Keywords: Economic responsibility audit, anti-corruption.
VAI TRÒ KIỂM TOÁN TRÁCH NHIỆM KINH TẾ TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Kiểm toán trách nhiệm kinh tế (KTTNKT) đối với cán bộ lãnh đạo quản lý là hoạt động kiểm tra và đánh giá của cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN) về trách nhiệm kinh tế của cán bộ quản lý trong thời gian nhiệm kỳ công tác thông qua việc kiểm tra, đánh giá tính trung thực, hợp pháp và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động kinh tế liên quan khác của địa phương, đơn vị mà họ lãnh đạo. KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo quản lý giúp đánh giá chính xác cán bộ lãnh đạo có thực hiện đúng chức trách kinh tế của mình hay không, có chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, quy định hiện hành về kinh tế, tài chính của Nhà nước hay không. Đây là phương pháp kiểm tra khoa học, góp phần hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, sử dụng cán bộ và mang lại rất nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, KTTNKT lấy việc thu chi tài chính của đơn vị được kiểm toán làm cơ sở, thông qua thẩm tra xem xét tình hình hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế, tình hình đưa ra những quyết sách lớn trong kinh doanh, tình hình chấp hành quy định tài chính kinh tế của nhà nước, tình hình tuân thủ kỷ luật liêm chính của cán bộ lãnh đạo trong nhiệm kỳ công tác, có thể đánh giá ở mức độ nào đó cán bộ lãnh đạo có tố chất chính trị và trình độ quyết sách cần có ở một người quản lý hay không, cũng có thể đánh giá chính xác cán bộ lãnh đạo có thực hiện chức trách kinh tế của mình hay không. Đây là căn cứ tham khảo quan trọng để cơ quan quản lý cán bộ tuyển chọn, sử dụng và đánh giá cán bộ một cách chính xác. Vì thế việc KTTNKT của cán bộ lãnh đạo cũng trở thành một khâu quan trọng của công tác giám sát cán bộ.
Thứ hai, KTTNKT là một biện pháp quan trọng phòng, chống tham nhũng ngay từ gốc, thúc đẩy tính cần kiệm liêm chính của cán bộ lãnh đạo. Trong tình hình nền kinh tế - xã hội còn tồn tại nhiều vấn đề, việc tổng hợp phân tích nguyên nhân phát sinh những vấn đề này đều có liên quan đến một số ít lãnh đạo các cơ quan không sử dụng đúng quyền lực và không nghiêm chỉnh thực hiện chức trách. Biểu hiện chủ yếu ở chỗ: Một là, vi phạm trình tự quyết sách dân chủ khoa học, cá nhân một số người đưa ra quyết sách sai lầm, gây ra tổn thất, lãng phí cho tài sản nhà nước; Hai là, tắc trách trong công việc, buông lỏng quản lý tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng, gây thất thoát tiền và tài sản nhà nước; Ba là, muốn thu lợi nhanh trong công tác kinh tế, làm việc không theo quy luật kinh tế khách quan, thậm chí làm ăn gian dối dùng thủ đoạn không chính đáng để mạo nhận thành tích; Bốn là, không quan tâm đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân, vì lợi ích riêng của đơn vị, chiếm dụng vốn, lập quỹ đen, tham ô, hối lộ đi sâu vào con đường phạm pháp.
Thứ ba, KTTNKT là công cụ hữu hiệu để xây dựng nhà nước pháp quyền, đôn đốc bộ máy lãnh đạo hoạt động theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Thực hiện chế độ KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo có tác dụng thiết thực tăng cường hiêu quả giám sát nghiêm ngặt và hữu hiệu việc thực thi quyền lực của cán bộ lãnh đạo, khắc phục được tình trạng tắc trách, vượt quyền hay lạm dụng quyền lực được giao; thúc đẩy cán bộ lãnh đạo tự giác nâng cao nhận thức pháp chế và ý thức pháp luật, học hỏi và vận dụng thành công các phương pháp pháp luật để lãnh đạo công tác kinh tế, quản lý xã hội, tiêu chuẩn hoá hành vi hành chính của bản thân, hướng dẫn cán bộ lãnh đạo quản lý và sử dụng quyền hạn đúng cách, đúng thẩm quyền.
KINH NGHIỆM KIỂM TOÁN TRÁCH NHIỆM KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC
Để tăng cường công tác quản lý, giám sát cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, minh bạch, Chính phủ Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI đã áp dụng biện pháp “KTTNKT cán bộ lãnh đạo đương nhiệm” và đã thu được những kết quả thật khả quan. Từ những năm 1980 đến năm 2000, Trung Quốc thực hiện kiểm toán rời nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo các đơn vị hành chính sự nghiệp từ cấp huyện và các doanh nghiệp nhà nước. Sau một thời gian triển khai, tổng kết và đúc rút kinh nghiệm, nhận thấy loại hình kiểm toán rời nhiệm có khả năng phát hiện các vấn đề không kịp thời, nguy cơ lãnh đạo đưa ra những quyết sách chưa phù hợp trong quản lý rất cao. Do đó, từ đầu năm 2000 Trung Quốc đã thực hiện KTTNKT cán bộ lãnh đạo đương nhiệm.
KTNN Trung Quốc (CNAO) ra đời vào năm 1983, là cơ quan ngang Bộ, thuộc Quốc vụ viện, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng, thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động kiểm toán độc lập theo quy định của pháp luật và báo cáo kết quả kiểm toán với Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. CNAO chịu trách nhiệm kiểm toán thu chi tài chính công của các cơ quan thuộc Quốc vụ viện và chính quyền địa phương các cấp khác nhau, thu chi của doanh nghiệp và công ty nhà nước. CNAO đặt trọng tâm vào hai nội dung quyền lực và con người. Không có công thức chung cho tất cả các cuộc kiểm toán nhưng CNAO đào sâu vào các mối quan hệ, hướng đi của dòng tiền, truy xuất nguồn gốc. Về địa vị pháp lý và quyền hạn của CNAO, kế hoạch KTTNKT được xây dựng độc lập, có sự tham gia ý kiến của Ủy ban kiểm tra, Quốc vụ viện và khối Đảng. CNAO dựa vào nguồn lực hiện có để lên kế hoạch chi tiết cho hơn 30 đơn vị trưc thuộc tại các địa phương và tiến hành kiểm toán. Đội ngũ kiểm toán viên thực hiện KTTNKT là những người có nhiều kinh nghiệm và có chức vụ tại CNAO. Cơ quan kiểm toán trực thuộc tại các địa phương tiến hành KTTNKT các lãnh đạo cấp xã, phường; cơ quan kiểm toán trung ương kiểm toán bí thư, chủ tịch tỉnh; Văn phòng đặc phái viên - cấp cao nhất của CNAO kiểm toán lãnh đạo cấp bộ và doanh nghiệp.
Mục tiêu quan trọng nhất của KTTNKT không phải là phát hiện ra các vụ việc mà xây dựng, cùng nhau giúp đất nước phát triển tốt hơn. KTTNKT giải quyết toàn diện các vấn đề về con người, thể chế, quy định, quy trình…
Không giống với các loại kiểm toán lấy “đơn vị” làm đối tượng kiểm toán, đối tượng KTTNKT chủ yếu là “con người”; do vậy, KTTNKT có đối tượng và nội dung khác biệt, cụ thể:
Về đối tượng: Trước hết, từ góc độ cấp bậc của các đối tượng kiểm toán mà nói, phạm vi cấp trên đã được phủ đến các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như bí thư, chủ tịch tỉnh, trưởng các sở ban ngành, cấp dưới kiểm toán đến bí thư chi bộ xã, trưởng thôn, xã, thị trấn giai tầng cơ sở thấp nhất; từ góc độ vị trí công tác bao gồm cơ quan giám sát, cơ quan thẩm phán, chính quyền và đảng ủy địa phương, các cán bộ lãnh đạo đương chức trong các tổ chức nhân dân, đơn vị sự nghiệp như các trường cao đẳng đại học, các chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc của tổ chức tài chính, doanh nghiệp nhà nước đều phải chịu kiểm toán.
Về nội dung kiểm toán: Trên cơ sở kiểm toán tình tình thực tế, hợp pháp và hiệu quả trong việc thu chi ngân sách tài chính, căn cứ vào đặc điểm cương vị, quyền hạn chức trách của cán bộ lãnh đạo khác nhau để làm nổi bật trọng điểm kiểm toán. Đối với các cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền, trọng điểm kiểm toán là kiểm tra, giám sát tình hình gánh vác trách nhiệm quán triệt thực hiện giải pháp chính sách của Trung ương, phát triển kinh tế, tái cơ cấu, phòng chống và hóa giải rủi ro, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống nhân dân; đối với cán bộ lãnh đạo các tổ chức tài chính và doanh nghiệp nhà nước, trọng điểm kiểm toán kiểm tra giám sát tình hình trách nhiệm gánh vác trong việc thực hiện giải pháp chính sách Trung ương, quản lí kinh doanh, sáng tạo và chuyển đổi nâng cấp, quản lí và kiểm soát rủi ro và tài sản ở nước ngoài, phát triển bền vững, xây dựng bộ máy liêm khiết. Đồng thời, nghiêm túc tìm ra những vấn đề vi phạm nghiêm trọng kỷ luật pháp luật, lạm dụng chức quyền, đưa ra quyết sách sai trái gây tổn thất lãng phí, kẽ hở trong quản lý kinh tế và các tác phong chậm chạp, chây ì, làm liều, thúc đẩy cán bộ lãnh đạo thực hiện chức trách nhiệm vụ theo pháp luật.
Về quy trình kiểm toán: Quy trình triển khai và thực hiện kết luận KTTNKT của CNAO gồm các giai đoạn tương đương với các cuộc kiểm toán khác: Thành lập đoàn kiểm toán; Thông báo quyết định kiểm toán cho cán bộ quản lý và đơn vị được kiểm toán hoặc đơn vị trước đây công tác, cơ quan kiểm tra kỷ luật, Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị liên quan; Tổ chức họp với thành viên là đoàn kiểm toán, cán bộ quản lý được kiểm toán, nhân sự liên quan của đơn vị được kiểm toán, thành viên của Ban “hội nghị liên tịch”.
Về thời hạn kiểm toán: Từ góc độ tần suất kiểm toán, sẽ kiểm tra ít nhất một lần trong thời gian đương nhiệm đối với các cán bộ lãnh đạo nắm giữ nguồn vốn công, tài sản quốc gia, khối lượng lớn tài nguyên thiên nhiên quốc gia, có quyền quyết sách, thực thi và quản lý các vấn đề chính sách kinh tế quan trọng, có vị trí quan trọng trong quản lý dự án trọng điểm và các ngành trọng điểm.
Hiện nay, KTTNKT là một trong những nhiệm vụ công tác chính của cơ quan KTNN Trung Quôc, số lượng cuộc kiểm toán bình quân chiếm khoảng 40% toàn bộ số lượng cuộc kiểm toán, lượng công tác kiểm toán bình quân chiếm trên 45% toàn bộ lượng công tác kiểm toán. Từ năm 2008 đến năm 2015, KTNN Trung Quốc đã tiến hành kiểm toán 220.000 lượt cán bộ lãnh đạo. KTNN Trung Quốc đã chuyển 3.000 vụ liên quan đến vấn đề vi phạm kỷ luật pháp luật nghiêm trọng, liên quan đến 7.000 người, với số tiền lên đến hơn 3.700 tỉ Nhân dân tệ, hỗ trợ các cơ quan hữu quan điều tra ra hàng loạt các vụ án tham nhũng vô cùng lớn. Năm 2014, KTNN Trung Quốc đã chuyển hơn 800 vụ liên quan vấn đề vi phạm kỷ luật pháp luật nghiêm trọng lên tòa án và cơ quan giám sát kiểm tra kỷ luật. Con số về người và tài chính tăng cao so với năm trước. Có thể nói, KTTNKT đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tăng cường giám sát, kiểm soát đối với quá trình vận hành quyền lực, thúc đẩy xử lý, PCTN và hoàn thiện quản lý nhà nước. Để có thể phát hiện ra nhiều vụ việc tham nhũng, KTNN Trung Quốc đã áp dụng một số biện pháp hiệu quả như: Tăng cường ý thức trách nhiệm, bồi dưỡng và vận dụng phương pháp tư duy kiểm toán hệ thống và khoa học; thực hiện công khai minh bạch kết quả kiểm toán; chú trọng các kênh tiếp dân để phát hiện manh mối; thúc tiến giải quyết các vấn đề về chế độ, cơ chế và thể chế; cải tiến phương pháp kiểm toán, vận dụng đầy đủ phương pháp kỹ thuật tiên tiến của CNTT; tăng cương phối hợp với các cơ quan chấp pháp khác, xây dựng cơ chế liên kết phối hợp có sức mạnh và hiệu quả...
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Ở Việt Nam, Kiểm toán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ. Đây là cơ quan được thành lập trong thời kỳ đổi mới khi nền nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để giúp hoàn thiện hơn công tác quản lý nguồn lực tài chính quốc gia, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Sau 30 năm xây dựng và phát triển, từ một cơ quan không có tiền thân về tổ chức và tiền lệ về hoạt động, địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước đã nâng tầm Kiểm toán nhà nước từ cơ quan do “luật định” thành “Hiến định”, nâng cao vị thế, vai trò, trách nhiệm của Kiểm toán nhà nước trong kiểm toán hoạt động quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Với khuôn khổ pháp lý không ngừng hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt động kiểm toán ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Tổng hợp kết quả kiểm toán từ khi thành lập đến nay, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện và kiến nghị trên 722.290 tỷ đồng, trong đó từ năm 2011 đến nay là 634.008 tỷ đồng), trong đó tăng thu, giảm chi NSNN chiếm tỷ trọng trên 40% tổng kiến nghị kiểm toán. Thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị sửa đổi bổ sung, thay thế, bãi bỏ 2.181văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý sai quy định hoặc không phù hợp thực tiễn, kịp thời khắc phục “lỗ hổng” về cơ chế, chính sách, tránh thất thoát, lãng phí, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia; giai đoạn từ năm 2011 đến nay Kiểm toán nhà nước đã chuyển 40 vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán sang cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định, góp phần quan trọng vào việc phát hiện, phòng ngừa và xử lý tham nhũng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tuy số lượng các kiến nghị ngày càng cao và với giá trị lớn nhưng qua theo dõi phần lớn các báo cáo kiểm toán của các đoàn kiểm toán thì không có nhiều đoàn kiểm toán có kiến nghị truy tố hoặc xử lý trách nhiệm cá nhân của các nhà quản lý, các lãnh đạo của các tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến những sai phạm, sai sót làm thất thoát lớn tiền và tài sản nhà nước.
Bên cạnh đó, việc bổ nhiệm cán bộ thời gian qua còn nhiều bất cập, tuy qua nhiều khâu, qua kiểm soát của nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương, đúng quy trình nhưng vẫn “để lọt” và bổ nhiệm nhiều cán bộ quản lý không đáp ứng yêu cầu công việc và chỉ khi báo chí và các cơ quan chức năng vào cuộc thì mới phát hiện sai phạm. Nếu thực hiện kiểm toán trách nhiệm cá nhân trước khi bổ nhiệm thì sẽ giảm thiểu được việc bổ nhiệm không đúng người, không đúng năng lực vào vị trí quan trọng; không bổ nhiệm những lãnh đạo quản lý yếu kém vào vị trị những tập đoàn lớn của Nhà nước hoặc vào những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước vì chỉ có kiểm toán trách nhiệm cán bộ trong cả một quá trình mới có đánh giá đầy đủ, toàn diện, sát thực tế đối với cán bộ đó.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm KTTNKT của Trung Quốc, bài viết đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, từ kinh nghiệm của Trung Quốc, sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ của cấp lãnh đạo quyết sách cao nhất chính là động lực lớn của những sáng kiến và phát triển chế độ KTTNKT. Nghị quyết của Trung ương Đảng về những vấn đề quan trọng trong việc tăng cường và cải tiến xây dựng Đảng trong tình hình mới được Hội nghị toàn quốc lần thứ 4 Khóa XVII Đảng cộng sản Trung ương Trung Quốc khẳng định: “Hoàn thiện công tác KTTNKT của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước và lãnh đạo chủ chốt trong Đảng và chính quyền”. Do vậy, Bộ Chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cần có chủ trương và nghị quyết cho phép thực hiện KTTNKT, trước mắt thí điểm thực hiện Đề án KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt các cấp của địa phương; chủ tịch, tổng giám đốc các tập đoàn, tổng công ty của Nhà nước. Sau khi thí điểm tổ chức đánh giá và mở rộng đến các cấp, các ngành và các đơn vị có liên quan trong cả nước.
KTNN cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan tiến hành nghiên cứu, xây dựng đề án chi tiết về KTTNKT tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng và cấp có thẩm quyền vận dụng chế độ KTTNKT theo kinh nghiệm của KTNN Trung Quốc cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều điểm tương đồng của nước ta.
Thứ hai, hiện nay, khung pháp lý của KTTNKT Trung Quốc bao gồm Luật Kiểm toán nhà nước, quy định của Quốc vụ viện và các Thông tư hướng dẫn khác. Ở nước ta chưa có cơ sở pháp lý để KTTNKT; do vậy, Quốc hội cần xem xét ban hành nghị quyết cho phép thực hiện KTTNKT; cần phải xây dựng, kiện toàn cơ cấu quản lý tổ chức vận hành cũng như cơ chế sử dụng kết quả KTTNKT của KTNN. KTNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan tiến hành nghiên cứu, soạn thảo và trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động KTTNKT đối với cán bộ lãnh đạo.
Thứ ba, căn cứ chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về KTTNKT, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền quán triệt và yêu cầu các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức có liên quan chấp hành và phối hợp tốt với KTNN thực hiện KTTNKT do KTNN chủ trì thực hiện; sử dụng kết quả KTTNKT trong công tác quản lý cán bộ, nhất là trong việc xem xét bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý; yêu cầu KTNN thực hiện KTTNKT định kỳ hoặc đột xuất với các chức danh lãnh đạo thuộc thẩm quyền quản lý.
Hiện nay ở nước ta tham nhũng đã trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, Đảng ta đề ra phương châm đấu tranh phòng, chống tham nhũng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn với nguyên tắc xử lý cán bộ sai phạm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Hy vọng kinh nghiệm của Trung Quốc về KTTNKT khi được áp dụng tại Việt Nam sẽ là một trong những giải pháp tích cực, góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kiểm toán nhà nước (2003). Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kiểm toán trách nhiệm kinh tế trong nhiệm kỳ đối với cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước và các đơn vị kinh tế nhà nước, Đề tài cấp Bộ.
2. Kiểm toán Nhà nước (2023). “Hoàn thiện pháp luật kiểm toán nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam”. Đề tài cấp Bộ
3. Kiểm toán Nhà nước (2024). Báo cáo tổng kết 30 năm xây dựng và phát triển Kiểm toán nhà nước.
4. Quốc hội (2019). Luật số 55/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước.
Ngày nhận bài: 25/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/6/2025; Ngày duyệt đăng: 26/6/2025 |