Khó khăn, thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan thuộc Bộ Tài chính

Bài viết đề tập trung phân tích cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan nhà nước, minh hoạ thực trạng áp dụng tại các cơ quan của Bộ Tài chính; bàn luận kết quả và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện và góp phần sử dụng ngân sách tiết kiệm, đúng mục đích, tạo ra giá trị cung cấp dịch vụ công cao hơn, đảm bảo hài hòa giữa quyền hạn - trách nhiệm - giám sát trong quản lý tài chính công.

Ths Nguyễn Thị Hồng Hải

Cục Kế hoạch - Tài chính, Bộ Tài chính

TS. Phạm Thị Hoàng Phương

Học viện Tài chính, Email: nguyenhonghai@mof.gov.vn

Tóm tắt

Trong những năm gần đây, Việt Nam đang tích cực triển khai cải cách quản lý tài chính công theo hướng hiện đại, minh bạch, gắn với kết quả đầu ra và hiệu quả hoạt động. Điều này đòi hỏi các cơ quan phải chủ động xây dựng kế hoạch tài chính gắn với nhiệm vụ được giao, đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng ngân sách. Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản lý tài chính, đặc biệt là trong báo cáo, giám sát và kiểm tra tài chính công đang trở thành yêu cầu bắt buộc. Do đó, bài viết đề tập trung phân tích cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan nhà nước, minh hoạ thực trạng áp dụng tại các cơ quan của Bộ Tài chính; bàn luận kết quả và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện và góp phần sử dụng ngân sách tiết kiệm, đúng mục đích, tạo ra giá trị cung cấp dịch vụ công cao hơn, đảm bảo hài hòa giữa quyền hạn - trách nhiệm - giám sát trong quản lý tài chính công.

Từ khoá: Cơ quan nhà nước, cơ chế tự chủ, định mức phân bổ chi thường xuyên, kinh phí quản lý hành chính, tự chịu trách nhiệm.

Summary

In recent years, Viet Nam has been actively implementing public financial management reforms toward modernization and transparency, emphasizing output-based results and operational efficiency. This requires government agencies to proactively develop financial plans linked to their assigned tasks while being accountable for budget utilization outcomes. The adoption of international standards in financial management, particularly in public financial reporting, monitoring, and auditing, has become a mandatory requirement. Therefore, this paper focuses on analyzing the mechanism of financial autonomy and accountability in administrative management funding within state agencies, illustrating the current implementation at units under the Ministry of Finance. It also discusses the outcomes and provides several recommendations to improve the mechanism, aiming to ensure efficient and purposeful use of the state budget, enhance the value of public service delivery, and maintain a balance between authority, responsibility, and oversight in public financial management.

Keywords: State agencies, financial autonomy mechanism, recurrent expenditure allocation norms, administrative management funding, accountability.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Kinh phí quản lý hành chính (QLHC) là khoản ngân sách cần thiết để duy trì hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước (CQNN), đảm bảo cho việc thực thi nhiệm vụ chính trị, quản lý và điều hành công vụ hiệu quả. Bộ Tài chính là cơ quan quản lý tài chính quốc gia, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý và sử dụng kinh phí QLHC đã được triển khai rộng rãi và mang lại những kết quả tích cực.

Cơ chế tự chủ về kinh phí QLHC cũng giúp các đơn vị trong Bộ Tài chính nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN). Việc các đơn vị tự xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ theo hướng công khai, cụ thể hóa nhiệm vụ chi đã tạo ra hệ thống quản lý tài chính nội bộ chặt chẽ, từ đó hạn chế các sai phạm, thất thoát ngân sách và tăng cường kỷ luật tài chính. Đồng thời, Bộ Tài chính vẫn duy trì hệ thống kiểm toán nội bộ và phối hợp với Kiểm toán Nhà nước để đánh giá, giám sát việc thực hiện chi NSNN, đảm bảo quyền lợi của Nhà nước và người dân được bảo vệ tối đa.

Để đảm bảo sự linh hoạt trong phân bổ và sử dụng ngân sách, đồng thời nâng cao trách nhiệm của từng đơn vị trong quản lý chi tiêu, các đơn vị trực thuộc Bộ đã nhanh chóng xây dựng, cập nhật quy chế chi tiêu nội bộ theo hướng phù hợp với các quy định mới, từng bước tạo dựng môi trường quản lý tài chính hiện đại, chuyên nghiệp và minh bạch.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện cơ chế tự chủ cũng còn những hạn chế, thách thức cần khắc phục. Thêm vào đó, áp lực thực hiện nhiệm vụ chính trị và công việc chuyên môn ngày càng lớn đặt ra yêu cầu cao hơn cho các đơn vị về chất lượng, hiệu quả hoạt động, trong khi nguồn kinh phí giao chưa tăng tương ứng, đòi hỏi các đơn vị phải tối ưu hóa mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính. Việc chuyển đổi mô hình tổ chức và áp dụng các quy định mới cũng đặt ra thách thức lớn trong công tác quản lý tài chính nội bộ, đòi hỏi sự đồng bộ, đồng thuận và sự hỗ trợ từ cấp trên.

CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH

Từ năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP (Chính phủ, 2015) quy định: “Các cơ quan hành chính được tự chủ trong sử dụng kinh phí quản lý hành chính theo định mức được giao”. Liên Bộ: Tài chính, Nội vụ đã hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV (Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, 2006).

Năm 2013, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 7/10/2013 (Chính phủ, 2013) đã bổ sung quy định liên quan đến trình tự lập, phân bổ và quyết toán ngân sách, tăng tính minh bạch và phân quyền tài chính cho đơn vị hành chính. Ngày 30/5/2014, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 71/2014/TTLT-BTC-BNV quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với CQNN (Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, 2006).

Năm 2015, Nghị quyết số 39-NQ/TW (Ban Chấp hành Trung ương, 2015) về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nêu rõ: “Tiếp tục thực hiện cơ chế khoán kinh phí QLHC gắn với chế độ tiền thưởng để khuyến khích những người làm việc tốt, hiệu quả”.

Tiếp đến, tại Nghị quyết số 18-NQ/TW (Ban Chấp hành Trung ương, 2017) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã nêu: “Việc phân bổ kinh phí thường xuyên theo biên chế chưa gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan, đơn vị là một trong những nguyên nhân làm tăng biên chế” và “thực hiện việc khoán kinh phí để phát huy tính tích cực, chủ động và tự chủ, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”.

Nghị quyết số 27-NQ/TW (Ban chấp hành Trung ương, 2018) về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp xác định: Thực hiện khoán quỹ lương gắn với mục tiêu tinh giản biên chế cho các cơ quan, đơn vị. Mở rộng cơ chế khoán kinh phí gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ.

Luật Ngân sách Nhà nước (Quốc hội, 2025) đã cụ thể hóa chủ trương đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan, đơn vị, đảm bảo công khai, minh bạch; triệt để thực hiện phân cấp, phân quyền trong việc xây dựng cơ chế, chính sách thu, chi NSNN; xóa bỏ cơ chế xin cho, phát sinh tiêu cực, thủ tục hành chính trong công tác quản lý, phân bổ.

THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH TẠI BỘ TÀI CHÍNH

Một số kết quả đạt được

Sau gần 15 năm thi hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP, đã có 100% các CQNN của các bộ, cơ quan trung ương đã thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí QLHC, trong đó có các CQNN thuộc Bộ Tài chính (trước hợp nhất). Cụ thể:

Về số lượng đơn vị, có 4 đơn vị dự toán ngân sách (cấp 2) thuộc Bộ; đơn vị dự toán ngân sách (cấp 2) thuộc Tổng cục có 23 đơn vị; đơn vị sử dụng ngân sách (cấp 3 - đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách) 118 đơn vị.

Về kinh phí quản lý hành chính giao cho các cơ quan:

Kinh phí QLHC thực hiện chế độ tự chủ được sử dụng năm 2024 là 1.248.229 triệu đồng, gồm: nguồn NSNN 1.173.189 triệu đồng; nguồn phí 75.040 triệu đồng, cụ thể:

- Kinh phí giao tự chủ 1.027.565 triệu đồng, gồm: nguồn NSNN 983.799 triệu đồng; nguồn phí: 43.766 triệu đồng.

- Kinh phí không giao tự chủ 220.664 triệu đồng, gồm: nguồn NSNN 189.390 triệu đồng; nguồn phí 31.274 triệu đồng.

- Số kinh phí tiết kiệm được năm 2024 là 86.999 triệu đồng, gồm: nguồn NSNN 82.206 triệu đồng; nguồn phí 4.793 triệu đồng.

Tiết kiệm kinh phí:

Biên chế thực tế năm 2024 của các đơn vị thấp hơn so với chỉ tiêu được giao. Ngoài ra, các đơn vị đã thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động hành chính như tiết kiệm chi hội nghị, chi điện, nước, mua sắm, sửa chữa... Cụ thể, 118/118 đơn vị dự toán cấp 3 (đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách) đã thực hiện tiết kiệm được kinh phí năm 2024. Tỷ lệ kinh phí tiết kiệm được năm 2024 so với kinh phí giao tự chủ được sử dụng bình quân của các đơn vị là 8,47%.

Phân phối sử dụng kinh phí tiết kiệm:

Tổng số 118 đơn vị dự toán cấp 3 sử dụng tiết kiệm đã có: hệ số tăng thu nhập dưới 0,1 lần là 19 đơn vị; từ 0,1-0,2 lần là 41 đơn vị; trên 0,2-0,3 lần là 22 đơn vị; trên 0,3-0,4 lần là 20 đơn vị; trên 0,4-0,5 lần là 9 đơn vị; trên 0,5-1,0 lần là 7 đơn vị. Thực hiện trích Quỹ và chi khen thưởng, phúc lợi: 21.147 triệu đồng.

Đánh giá chung

Thứ nhất, các cơ quan đã chủ động thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí QLHC, cụ thể là: chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ đặt ra các tiêu chuẩn, định mức chi của đơn vị; thủ trưởng các cơ quan chủ động phân bổ, điều chỉnh kinh phí được giao tự chủ để triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, từ đó công việc được giải quyết nhanh, hiệu quả hơn, từng bước hạn chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới cũng như hạn chế sự thụ động của cấp dưới chờ ý kiến chỉ đạo của cấp trên mới triển khai thực hiện.

Thứ hai, các cơ quan đã chủ động sử dụng có hiệu quả kinh phí QLHC được giao tự chủ, chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bên cạnh đó, do được tự chủ sử dụng kinh phí được giao, kinh phí được giao tự chủ cuối năm còn dư được chuyển sang năm sau sử dụng nên không còn tình trạng “chạy” kinh phí còn dư cuối năm để chi tiêu cho hết, hạn chế sự lãng phí trong sử dụng kinh phí quản lý được ngân sách cấp. Đồng thời, các cơ quan đã đề ra các biện pháp thiết thực nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như quy chế sử dụng ô tô, khoán văn phòng phẩm, khoán tiền điện thoại tại công sở... từ đó tăng chất lượng công tác chuyên môn; có kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập cho cán bộ công chức và người lao động.

Thứ ba, cơ chế tự chủ đã trao quyền tự quyết định tổ chức, sắp xếp bộ máy cho thủ trưởng đơn vị, góp phần thúc đẩy sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Cơ chế tự chủ đã trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí QLHC cho đơn vị, do đó việc xây dựng, tổ chức thực hiện hệ thống quy chế tài chính nội bộ như quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý sử dụng tài sản công được triển khai với nguyên tắc dân chủ, minh bạch, hiệu quả. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường giám sát của cán bộ, công chức trong sử dụng kinh phí. Tạo động lực để cán bộ, công chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Một số tồn tại, hạn chế

Một là, theo số liệu tổng hợp báo cáo, ở trung ương, không phải tất cả các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ tài chính chung theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP. Một số đơn vị thuộc Bộ Tài chính nói riêng hay ở các CQNN ở trung ương nói chung được cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện cơ chế tài chính đặc thù. Một số cơ quan áp dụng cơ chế tài chính như đơn vị sự nghiệp công lập, một số cơ quan được thực hiện đặc thù về chế độ tiền lương, thu nhập tăng thêm cao hơn so với các CQNN thực hiện theo cơ chế tài chính chung. Theo đó, chưa đảm bảo việc thực hiện đồng bộ về việc cơ chế tài chính thống nhất trong khối các cơ quan hành chính nhà nước.

Hai là, kinh phí giao thực hiện tự chủ, giao khoán được xác định theo chỉ tiêu biên chế được cấp có thẩm quyền giao trên cơ sở vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức. Tuy nhiên đến nay nhiều cơ quan đơn vị vẫn chưa được phê duyệt đề án vị trí việc làm; việc giao kinh phí tự chủ vẫn dựa vào biên chế được cấp có thẩm quyền giao.

Ba là, kinh phí giao tự chủ căn cứ vào định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên; định mức phân bổ dự toán chi QLHC trong các giai đoạn đã được điều chỉnh tăng nhưng không tăng nhiều, trong khi giá cả thị trường thực tế đều tăng qua các năm. Mặt khác, đối với việc phân bổ kinh phí chi thường xuyên theo định mức căn cứ vào tổng biên chế mà không căn cứ vào đặc thù về bộ máy tổ chức dẫn đến Bộ Tài chính có nhiều đơn vị trực thuộc hoặc trụ sở làm việc của các đơn vị trực thuộc phân tán tại các địa phương gặp khó khăn trong việc phân bổ và sử dụng kinh phí chi thường xuyên theo định mức.

Bốn là, phần lớn các đơn vị thuộc Bộ Tài chính đều không có nguồn thu khác ngoài nguồn NSNN cấp, ngoài ra theo quy định còn phải tiết kiệm 10% kinh phí hoạt động thường xuyên làm nguồn cải cách tiền lương, nên các cơ quan gặp nhiều khó khăn về kinh phí thực hiện nhiệm vụ, khó có khả năng tiết kiệm kinh phí. Do đó nhiều đơn vị có kinh phí tiết kiệm nhưng quá ít nên không thể chi thu nhập tăng thêm, tỷ lệ kinh phí tiết kiệm được so với kinh phí được giao hầu hết còn thấp (5-6%/năm).

Năm là, về tự chủ trong việc quyết định mức chi. Cơ chế tự chủ cho phép thủ trưởng cơ quan quyết định mức chi tiêu trong phạm vi kinh phí được giao. Tuy nhiên một số tiêu chuẩn định mức chi quy định cần tuân thủ theo mức chi chung thống nhất trong phạm vi cả nước, trong khi giá cả thị trường luôn biến động và định mức Nhà nước ban hành chưa được điều chỉnh kịp thời để phù hợp với tình hình thực tế.

Sáu là, về phân phối, sử dụng kinh phí tiết kiệm. Cơ chế tự chủ quy định chi trả thu nhập tăng thêm theo nguyên tắc phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người (hoặc từng bộ phận trực thuộc). Tuy vậy, đa số các cơ quan chưa xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, việc trả thu nhập tăng thêm căn cứ vào mức bình bầu và còn mang tính hình thức.

Nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn

Một là, việc thực hiện cơ chế tài chính chung đối với cơ quan hành chính nhà nước theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP không đồng bộ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước do một số văn bản pháp luật khác của cấp có thẩm quyền đã quy định cho phép thực hiện cơ chế tài chính đặc thù đối với một số cơ quan nhà nước khác so với Nghị định số 130.

Hai là, quỹ tiền lương và kinh phí giao tự chủ tính giảm tuyệt đối theo số biên chế được giao giảm hàng năm do thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp tổ chức bộ máy nên chưa khuyến khích việc tinh giản biên chế, giảm ý nghĩa của cơ chế giao khoán kinh phí.

Ba là, việc mở rộng quyền quyết định mức chi của Bộ trưởng, HĐND cấp tỉnh trong việc quyết định mức chi cao hơn mức chi do Nhà nước ban hành các địa phương thực hiện còn hạn chế nên một số trường hợp cần quyết định để triển khai nhanh đáp ứng nhu cầu công việc nhưng không thực hiện được, làm hạn chế hiệu quả của công việc.

Bốn là, việc chỉ quy định các nội dung chi thu nhập tăng thêm, chi khen thưởng, phúc lợi từ nguồn kinh phí tiết kiệm mà không quy định việc trích quỹ cho các nội dung này chưa đáp ứng được thực tế của các cơ quan

Năm là, nguồn lực từ NSNN có hạn nên định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính được điều chỉnh không nhiều trong thời gian qua, làm hạn chế nguồn kinh phí giao khoán, giao tự chủ của các cơ qua. Bên cạnh đó, triển khai xây dựng đề án vị trí việc làm còn chậm, nên việc giao khoán kinh phí căn cứ theo biên chế được giao hàng năm, trong khi biên chế có xu hướng ngày càng giảm nên làm giảm tính tích cực và ý nghĩa của cơ chế tự chủ. Một số cơ quan xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn sơ sài, chưa sát với yêu cầu quản lý, chi tiêu hoạt động thường xuyên hàng ngày của đơn vị mình nên còn lúng túng, chưa chủ động phát huy quyền được tự chủ quyết định mức chi, nội dung chi để thực hiện nhiệm vụ. Bộ, cơ quan trung ương, địa phương chưa chủ động, quyết liệt thực hiện nên việc chi trả thu nhập tăng thêm còn cào bằng, chưa khuyến khích người có năng lực, trình độ phát huy khả năng lao động, sáng tạo trong công việc để được hưởng thu nhập theo kết quả hoàn thành nhiệm vụ.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Đối với Chính phủ và các bộ, ngành liên quan

Cần sớm nghiên cứu, ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu thực tế về đổi mới cơ chế tự chủ của CQNN, tiếp tục khoán kinh phí QLHC gắn với chế độ tiền thưởng theo Nghị quyết số 27-NQ/TW để khuyến khích những người làm việc tốt, hiệu quả, đảm bảo đồng bộ với chính sách cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức.

Đối với hệ thống định mức phân bổ chi thường xuyên NSNN cụ thể định mức phân bổ đối với kinh phí QLHC cho các CQNN nên quy định bậc thang lũy thoái và định mức phân bổ ngân sách gắn với các bậc biên chế được giao cho 1 đơn vị sử dụng NSNN.

Đối với Bộ Tài chính

Bổ sung cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng kinh phí QLHC gắn với trách nhiệm giải trình của người đứng đầu đơn vị. Hoàn thiện quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm, gồm:

Xây dựng các quy định cụ thể về trách nhiệm giải trình, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ quan, đơn vị. Đồng thời, cần có chế tài rõ ràng để xử lý các trường hợp vi phạm quy định về quản lý, sử dụng kinh phí, đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả trong quản lý tài chính công.

Tăng cường vai trò của Bộ Tài chính trong việc hướng dẫn và giám sát thực hiện. Bộ Tài chính cần phát huy vai trò là cơ quan đầu mối trong việc hướng dẫn, tổ chức tập huấn nghiệp vụ và kiểm tra thực hiện cơ chế tự chủ tại các đơn vị trực thuộc. Đồng thời, cần phối hợp với các cơ quan chức năng khác để thống nhất triển khai cơ chế tự chủ trên phạm vi toàn quốc, tránh tình trạng mỗi bộ, ngành áp dụng theo một cách khác nhau.

Sớm xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chí đánh giá định lượng về hiệu quả tự chủ tài chính, đây là bước đi quan trọng nhằm đảm bảo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí QLHC được vận hành một cách khách quan, minh bạch và hiệu quả.

Tóm lại, việc triển khai hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí QLHC tại các CQNN là cần thiết khách quan góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách quản lý tài chính công của Việt Nam hiện nay theo hướng minh bạch, hiệu quả. Để cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm được thực hiện tốt và mang lại hiệu quả như mong muốn cần thiết phải có những thay đổi về thể chế đồng bộ, gắn với thực tiễn để đảm bảo tính khả thi của cơ chế, là hành lang pháp lý quan trọng để đơn vị chủ động trong quản lý, sử dụng kinh phí QLHC NSNN cấp, hoàn thành hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2015). Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

3. Ban chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.

4. Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2006). Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/1/2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

5. Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2014). Thông tư liên tịch số 71/2014/TTLT-BTC-BNV ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước.

7. Chính phủ (2005). Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

8. Chính phủ (2013). Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 7/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

9. Quốc hội (2025). Luật Ngân sách nhà nước số 89/2025/QH15 ngày 25/6/2025.

Ngày nhận bài: 7/10/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 11/10/2025; Ngày duyệt đăng: 15/10/2025