Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh mới

Công cuộc đổi mới đất nước gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, tạo nên những bước tiến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

TS. Lê Thị Hồng Khuyên

Trường Đại học Luật Hà Nội

TS. Ngô Thái Hà

Trường Đại học Thương mại

E.mail: lehongkhuyen2210@gmail.com

Tóm tắt

Công cuộc đổi mới đất nước gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, tạo nên những bước tiến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn gặp phải những hạn chế, bất cập, rào cản do hệ thống thể chế, chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Trong bối cảnh mới, cần có nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng hiện đại, minh bạch, ổn định, trở thành đòn bẩy đưa kinh tế Việt Nam tăng tốc, bứt phá trong giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: Bối cảnh mới, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế, Việt Nam

Summary

Viet Nam’s economic renovation, closely associated with the process of building and improving the national economic institutions, has recorded remarkable achievements, creating significant progress in socio-economic development. However, the process still faces limitations, shortcomings, and barriers arising from an incomplete and inconsistent institutional and policy framework. In the new context, it is essential to conduct research and propose solutions to modernize, enhance transparency, and ensure stability in the economic institutional system, thereby serving as a lever for accelerating Viet Nam’s economy and driving breakthroughs in the next stage of development.

Keywords: New context, institutional improvement, economic development, Viet Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong gần 40 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp từ năm 2008 và hiện nằm trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Những kết quả này có sự đóng góp trực tiếp từ quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển cho thấy hệ thống thể chế, chính sách vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; môi trường pháp lý còn chồng chéo, thiếu đồng bộ; một số rào cản chưa được tháo gỡ kịp thời, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia. Trước yêu cầu phát triển mới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng và tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, việc đổi mới tư duy và đẩy mạnh cải cách thể chế trở thành nhiệm vụ cấp bách, như đã được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Biến thể chế từ điểm nghẽn thành lợi thế cạnh tranh”, “đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”. Do đó, nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng hiện đại, minh bạch, ổn định và phù hợp thông lệ quốc tế, đưa thể chế trở thành động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững, giúp Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.

ĐỔI MỚI TƯ DUY VỀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Thể chế kinh tế được hiểu là hệ thống chính sách, pháp luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động kinh tế theo những nguyên tắc nhất định nhằm đạt được các mục tiêu phát triển. Thể chế kinh tế là một trụ cột quan trọng, góp phần bảo đảm sự ổn định của hệ thống chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân. Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Theo đó, Đại hội VI của Đảng (1986) đã đề ra những thay đổi mang tính bản lề trong đường lối phát triển kinh tế: từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định “thực chất của cơ chế quản lý kinh tế mới là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987). Đại hội VII của Đảng (1991) nêu rõ định hướng: “hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính sách và các công cụ khác” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991). Tại Đại hội IX (2001) Đảng ta đã khẳng định: “Mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005).

Tại các kỳ Đại hội X, XI, XII, XIII của Đảng, nhận thức về thể chế kinh tế thị trường cũng đã có những bước phát triển mới. Theo đó, Đại hội X của Đảng (2006) xác định: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008). Đại hội XI của Đảng coi “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một trong 3 đột phá chiến lược. Đại hội XII và XIII của Đảng tiếp tục khẳng định hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh mới, ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; ngày 4/5/2025 ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Các nghị quyết này khẳng định định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển; đưa kinh tế tư nhân trở thành một trong những trụ cột của nền kinh tế, đóng vai trò nền tảng và tạo động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng bứt phá trong thời gian tới.

Trước những tác động sâu rộng của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trên cơ sở các định hướng lớn của Đảng, Việt Nam tiếp tục sửa đổi Hiến pháp, hoàn thiện các đạo luật quan trọng (Luật Đất đai (sửa đổi); Luật Đầu tư công; Luật Thuế…) và xây dựng các dự thảo luật mới nhằm kiến tạo thể chế kinh tế hiện đại, thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng. Quá trình này tiếp tục khẳng định các nguyên tắc: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hình thức sở hữu và phân phối; hoàn thiện đồng bộ các yếu tố thị trường; Nhà nước quản lý theo cơ chế thị trường; đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Trải qua gần bốn thập kỷ, các chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, tạo nền tảng vững chắc cho kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường, vượt qua nhiều thách thức toàn cầu và vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á - Thái Bình Dương, thuộc nhóm 5 quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được như sau:

Thứ nhất, diện mạo kinh tế Việt Nam nhiều khởi sắc. Về tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 6-7%/năm, bất chấp những thách thức toàn cầu. Tính riêng năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 7,09%, thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 (7,47%; 7,36%; 8,54%) Vũ Dung (2025). Xét về quy mô, nền kinh tế Việt Nam năm 2024 đạt hơn 476 tỷ USD, đứng thứ tư khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia, Singapore và Thái Lan. Hiện nay, Việt Nam nằm trong số 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới và xếp thứ 32 trong số 100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới (Nguyễn Thu Hiền, 2024). Bên cạnh đó đóng góp của các khu vực kinh tế, theo Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), năm 2023 khu vực kinh tế nhà nước đạt 1.183.884,66 tỷ đồng vào GDP, tăng 5,3% so với năm 2022. Khu vực này giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt các lĩnh vực then chốt với nhiều dự án trọng điểm như: Nhà máy điện Nhơn Trạch 3, 4; Sân bay Long Thành; mở rộng cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển bứt phá, đóng góp 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội, sử dụng trên 82% lao động xã hội và góp phần tích cực vào việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ hai, năng suất lao động chuyển biến đáng kể, trong giai đoạn đầu tích cực xóa bỏ các rào cản thị thường và hội nhập một cách quyết đoán. Giai đoạn 1991-1995 mức tăng trưởng nhanh và đạt đỉnh 7,13% vào năm 1995; tuy nhiên chững lại trong giai đoạn 1996-2012 bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009; từ 2013 đến nay đã có sự phục hồi. Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam có bước tiến, bình quân giai đoạn 2011-2015 tăng 4,53%; giai đoạn 2016-2020 tăng 6,05% và giai đoạn 2021-2023 tăng 4,6%. Tuy nhiên, tính theo sức mua tương đương (PPP) năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2023 vẫn ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Cụ thể, chỉ bằng 7,6% mức năng suất của Singapore; 19,5% của Malaysia; 37,9% của Thái Lan; 45,6% của Indonesia và bằng 56,9% năng suất lao động của Philippines; chỉ cao hơn năng suất lao động của Campuchia (Ngô Tuấn Nghĩa, 2021). Thực trạng này là thách thức lớn, bởi nâng cao năng suất lao động là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.

Thứ ba, mức sống của người dân có những thay đổi ngoạn mục. Những năm đầu thập niên 1990 tỷ lệ hộ nghèo ở mức 58% và đến năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm 4,06%. Thu nhập bình quân đầu người, năm 2020 GDP đạt trên 2.700 USD/người, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Sự bứt phá trong tăng trưởng kinh tế cho thấy GDP bình quân đầu người và mức sống của nhân dân nâng cao, năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, tăng 160 USD so với năm 2022; tính đến năm 2024 GDP bình quân đạt khoảng 4.700 USD/người, bước vào trong nhóm các nước có thu nhập trung bình cao (Tổng cục Thống kê, 2025).

Thứ tư, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước đồng hành cùng doanh nghiệp để hội nhập hiệu quả, mở ra nhiều cơ hội mới. Tính đến tháng 1/2025, Việt Nam tham gia 20 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó 16 FTA đang có hiệu lực, bao gồm các hiệp định thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA của Việt Nam với EU, Hàn Quốc và Liên minh kinh tế Á - Âu… giúp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu. Nhờ môi trường đầu tư hấp dẫn, kim ngạch xuất khẩu từ gần 1 tỷ USD năm 1986 đã vượt 400 tỷ USD năm 2024, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia có thương mại lớn nhất thế giới. Cũng theo Tổng cục Thống kê năm 2024, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước đạt 113,7 tỷ USD, tăng 18,9% - cao hơn khu vực FDI (290 tỷ USD, tăng 11,9%), trở thành điểm sáng trong tăng trưởng.

Những thành tựu nêu trên là kết quả trực tiếp từ việc hoàn thiện khung pháp lý, chính sách cho phát triển kinh tế, song hệ thống thể chế vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây cản trở quá trình phát triển. Cụ thể: (i) Môi trường pháp lý và thể chế kinh tế ở Việt Nam còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ và minh bạch; hành lang pháp lý cho phát triển các nền tảng “mềm” còn yếu và chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tiễn triển khai vẫn là rào cản lớn đối với hiệu quả phát triển kinh tế; (ii) Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; (iii) Năng lực cạnh tranh và trình độ công nghệ còn lạc hậu; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, gặp nhiều khó khăn trong hội nhập quốc tế, tái cơ cấu và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, do năng suất lao động chỉ bằng khoảng 34% doanh nghiệp nhà nước và 69% doanh nghiệp FDI; (iv) Nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, đặc biệt là thiếu kỹ năng công nghệ thông tin và kỹ năng số.

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO

Để hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030), với mục tiêu đến năm 2030 đạt mức thu nhập trung bình cao (khoảng 7.500 USD/người), kinh tế số đóng góp 30% GDP, hướng tới đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 2 con số trong những năm tới và hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần triển khai đồng bộ và hiệu quả các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế ở Việt Nam như sau:

Một là, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị kinh tế của Nhà nước. Tập trung vào những nội dung: (i) Nhà nước làm tốt chức năng định hướng phát triển đất nước, ổn định kinh tế vĩ mô; phát huy vai trò dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế; (ii) Chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp với nền kinh tế, tạo hành lang pháp lý để hỗ trợ đổi mới sáng tạo và công nghệ mới theo yêu cầu thị trường; (iii) Định hướng chiến lược phát triển, tạo lập môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh thông thoáng, minh bạch cho các doanh nghiệp và thị trường; (iv) Chủ động hội nhập quốc tế; (v) Khai thác hiệu quả các cơ hội trong phát triển, hạn chế rủi ro, đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ điểm nghẽn để thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh, thúc đẩy vận hành hiệu quả nền kinh tế. Tập trung vào các nội dung sau: (i) Hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới, hỗ trợ hộ kinh doanh cá thể, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp…; (ii) Trên từng lĩnh vực pháp luật, kịp thời đẩy mạnh cải cách, số hóa thủ tục hành chính, điều chỉnh quan hệ kinh tế theo hướng thuận lợi cho các ngành, doanh nghiệp và các khu vực kinh tế, cụ thể: Về lĩnh vực sở hữu, quyền tài sản và hoạt động đầu tư, kinh doanh, cần kịp thời sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai; Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Hợp tác xã; Luật Quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Luật Tài nguyên; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư. Với công nghiệp - lĩnh vực trọng yếu của đất nước, cần xây dựng, hoàn thiện Luật Phát triển công nghiệp để làm nền tảng quy hoạch chiến lược, phát triển các cụm, khu công nghiệp quốc gia theo từng giai đoạn, đồng thời ràng buộc trách nhiệm quản lý từ Trung ương đến địa phương trong việc thực thi hiệu quả, đồng bộ chính sách công nghiệp. Về lĩnh vực thuế, nghiên cứu, sửa đổi các luật thuế tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như: Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (2022); Luật Thuế Giá trị gia tăng (2024); Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi 2012)… và các nghị định liên quan; (iii) Để thích ứng với bối cảnh mới, cần xây dựng khung pháp lý ở tầm cao hơn. Sau khi Luật Công nghiệp công nghệ số đã được ban hành và đưa vào thực thi, trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành các đạo luật như Luật Chính phủ số; Luật Khu công nghiệp; Luật Khu kinh tế… nhằm tạo nền tảng cho nền kinh tế vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Ba là, hoàn thiện thể chế về chế độ sở hữu, bảo hộ tài sản. Trong đó, cần: (i) Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế, chính sách về quan hệ sở hữu; thường xuyên cập nhật pháp luật bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức và Nhà nước; (ii) Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; (iii) Tăng cường minh bạch, công khai trong cấp quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản; bảo đảm công bằng trong phân phối và giám sát, ngăn chặn lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi; (iv) Tiếp tục mở rộng thị trường tài sản như bất động sản, tài sản trí tuệ, tạo cơ hội và lợi thế cạnh tranh cho các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng hiệu quả tài sản, gia tăng lợi ích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bốn là, khơi thông thể chế phát triển đồng bộ các khu vực, thành phần kinh tế. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế thành một khối thống nhất, gắn kết chặt chẽ, nhằm phát huy mạnh mẽ nội lực của nền kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể là nền tảng, kinh tế tư nhân là động lực và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao công nghệ, thúc đẩy kinh tế số. Nhà nước cần sớm hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trở thành trụ cột quan trọng, tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất. Bên cạnh đó, đổi mới quản lý theo hướng hậu kiểm, giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính, các khâu kiểm tra giám sát doanh nghiệp. Phát huy vai trò doanh nghiệp tư nhân trong các dự án trọng điểm quốc gia như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, giao thông liên vùng, cảng biển và logistics đạt chuẩn quốc tế. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất và khuyến khích hình thành tập đoàn tư nhân lớn, đủ sức cạnh tranh khu vực và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

Năm là, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng và thông thoáng. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: (i) Hoàn thiện cơ chế, chính sách tiếp cận các nguồn lực trong và ngoài nước; (ii) Đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao minh bạch, hiệu quả trong quản lý, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn lực, giảm chi phí và rủi ro; (iii) Cải tiến công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa và tăng cường hiệu quả vận hành Cổng thông tin một cửa quốc gia, góp phần rút ngắn thời gian thông quan và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; (iv) Thiết lập cơ chế công khai, minh bạch trong cấp phát và sử dụng quyền sở hữu tài sản, quyền kinh doanh nhằm hạn chế tiêu cực, rào cản, đảm bảo công bằng và tạo niềm tin cho doanh nghiệp; (v) Xây dựng hệ thống thông tin thông minh, giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận nhanh, chính xác và minh bạch các dữ liệu cần thiết; (vi) Xét về dài hạn, cần có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp trong kỷ nguyên số (vii) Tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực thi pháp luật, bảo đảm công bằng, minh bạch và nâng cao niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong môi trường kinh doanh; (viii) Phát triển thị trường tài chính theo hướng đa dạng và đồng bộ, tập trung mở rộng thị trường vốn, trái phiếu và các định chế tài chính phi ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Chính trị quốc gia, H, tr.65.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, t.51, tr.135.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr. 459.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008). Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr. 139.

5. Ngô Tuấn Nghĩa (2021). Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 9, tr.14-20.

6. Nguyễn Thu Hiền (2024). Giải pháp nâng cao năng suất lao động tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính online, 11/09/2024.

7. Tổng cục Thống kê (2025). Số liệu thống kê. https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke

8. Vũ Dung (2025). Từ nền kinh tế lạc hậu đến mục tiêu tăng trưởng hai con số. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/tu-nen-kinh-te-lac-hau-den-muc-tieu-tang-truong-hai-con-so-826157

Ngày nhận bài: 12/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/8/2025; Ngày duyệt đăng: 15/8/2025