TS. Vũ Lệ Hằng
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Nghiên cứu này xác định đóng góp của Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào một số ngành kinh tế tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2021-2024. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả cho rằng, tỉnh Bắc Ninh cần tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) ở các ngành có lợi thế cạnh tranh, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng số và công nghệ cho lao động và phát triển các nền tảng kinh tế số và du lịch văn hóa.
Từ khóa: Năng suất nhân tố tổng hợp, TFP, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
Summary
This study identifies the contribution of total factor productivity (TFP), driven by science, technology, and innovation, to several economic sectors in Bac Ninh province during the period 2021-2024. Based on the research findings, the author argues that Bac Ninh should increase investment in research and development (R&D) for industries with competitive advantages, strengthen digital and technological skill training for the workforce, and promote the development of digital economy platforms and cultural tourism.
Keywords: Total factor productivity, TFP, agriculture, industry, services
GIỚI THIỆU
Để nghiên cứu đóng góp của khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong nâng cao Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity - TFP) tỉnh Bắc Ninh theo ngành và quy mô doanh nghiệp, nghiên cứu sử dụng dữ liệu thống kê về giá trị gia tăng (GTGT), vốn, lao động và đầu vào trung gian của doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính) công bố hằng năm để tính toán đóng góp của TFP vào tăng trưởng GTGT của các ngành. Nghiên cứu sử dụng số liệu trong giai đoạn 2011-2024 của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (cũ) trên cơ áp dụng phương pháp ước lượng bán tham số để tính toán TFP và ước lượng biên ngẫu nhiên để xem xét đóng góp của các nhân tố vào TFP của khu vực doanh nghiệp.
Tính toán TFP từ số liệu doanh nghiệp hay đóng góp của TFP vào GTGT của doanh khiệp khi sử dụng số liệu điều tra doanh nghiệp sẽ cao hơn so với cách tính từ số liệu vĩ mô (GRDP, vốn và lao động). Nguyên nhân chính là do số liệu doanh nghiệp chi tiết và chính xác hơn, phương pháp ước lượng kiểm soát tốt hơn vấn đề nội sinh và khả năng phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố trung gian và cải tiến kỹ thuật một cách rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, số liệu vĩ mô trên địa bàn Tỉnh bao gồm tất cả các thành phần, lĩnh vực kinh tế khác như các hộ gia đình tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, thường trong các lĩnh vực như bán lẻ, dịch vụ ăn uống và sản xuất thủ công mà không có nhiều đóng góp về TFP trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, kết quả tính toán TFP đóng góp vào GTGT khi sử dụng số liệu doanh nghiệp sẽ cao hơn so với khi sử dụng số liệu vĩ mô cấp tỉnh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
TFP là năng suất hay hiệu quả của các nhân tố sản xuất ngoài vốn và lao động trong tạo ra sản lượng kinh tế. Các nhân tố này bao gồm tiến bộ công nghệ, trình độ quản lý, vốn con người, thể chế và chất lượng của môi trường kinh tế và các yếu tố ngẫu nhiên khác. Tăng TFP thường được coi là động lực thực sự đối với sự tăng trưởng GRDP. Đã có bằng chứng cho thấy, trong khi tăng lao động và tăng đầu tư là những đóng góp quan trọng, thì tăng TFP có thể chiếm tới hơn 60% trong sự tăng trưởng của các nền kinh tế. Cùng một đại lượng các yếu tố đầu vào, thì sự gia tăng GRDP do tăng TFP có tính quyết định đối với tốc độ tăng trưởng tổng thể của một nền kinh tế. Tăng TFP thể hiện chất lượng, chiều sâu tăng trưởng của nền kinh tế và được đánh giá dựa trên 2 chỉ số chính: tốc độ tăng TFP và tỷ trọng đóng góp của tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế.
Về phương pháp tính toán TFP, hiện nay, theo Cục Thống kê (NSO), phần lớn nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước cơ bản áp dụng phương pháp tính TFP từ số liệu vĩ mô hay còn gọi là phương pháp phần dư Solow (1956) được sử dụng để tính TFP từ số liệu thông kê của Cục Thống kê, như GRDP, vốn (K) và lao động (L).
TFP được tính bằng cách sử dụng phần dư Solow theo công thức:
![]() |
Phương pháp này được nhiều địa phương áp dụng và khả năng tiến tới áp dụng chung để tính toán cho các tỉnh, thành trong cả nước để đảm bảo tính thống nhất về phương pháp, độ tin cậy của kết quả, có thể so sánh được mức độ đóng góp của TFP giữa các tỉnh, thành phố. Ngoài phương pháp tính TFP từ số liệu vĩ mô, còn có phương pháp tính TFP từ số liệu điều tra doanh nghiệp theo phương pháp bán tham số, tuy nhiên, phương pháp này ít được sử dụng do tính chính xác thấp hơn phương pháp từ số liệu vĩ mô.
Để xác định đóng góp của ứng dụng KHCN và ĐMST trong tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh, có thể sử dụng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Analysis - SFA) để tính toán đóng góp của các nhân tố vào TFP; sử dụng kết hợp dữ liệu vĩ mô cấp tỉnh và dữ liệu vi mô cấp doanh nghiệp (có thể sử dụng dữ liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm từ NSO). Phân tích biên ngẫu nhiên là một phương pháp được sử dụng trong kinh tế lượng để phân tích hiệu quả sản xuất trong một ngành hoặc lĩnh vực cụ thể.
KẾT QUẢ TÍNH TOÁN VÀ THẢO LUẬN
Đóng góp của TFP vào ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Kết quả tính toán trong Bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2022, TFP giữ vai trò trung tâm trong tăng trưởng GTGT ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Trung bình trong cả giai đoạn, TFP luôn đóng góp tỷ trọng cao hơn hoặc tương đương với vốn và vượt xa lao động. Cụ thể, trong giai đoạn 2011-2015, TFP đóng góp trung bình 40,54% vào tăng trưởng GTGT, trong khi vốn đạt 38,12% và lao động chỉ chiếm 21,33%. Điều này phản ánh rõ sự chuyển dịch của nông nghiệp Bắc Ninh từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng - mở rộng lao động và vốn - sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, trong đó ưu tiên hiệu quả sử dụng đầu vào, đúng với bản chất của TFP.
Bảng 1: Đóng góp của các nhân tố vào GTGT của ngành nông nghiệp Bắc Ninh
Năm | Đóng góp của TFP | Đóng góp của lao động | Đóng góp của vốn |
2011 | 36,72 | 22,62 | 40,67 |
2012 | 38,65 | 23,81 | 37,54 |
2013 | 38,42 | 23,64 | 37,94 |
2014 | 44,47 | 18,00 | 37,53 |
2015 | 44,45 | 18,60 | 36,95 |
2016 | 37,20 | 24,53 | 38,27 |
2017 | 37,40 | 22,87 | 39,72 |
2018 | 37,34 | 20,94 | 41,72 |
2019 | 40,03 | 22,18 | 37,79 |
2020 | 29,04 | 25,00 | 45,96 |
2021 | 49,17 | 16,50 | 34,33 |
2022 | 37,00 | 25,06 | 37,94 |
2023 | 36,63 | 24,81 | 38,56 |
2024 | 37,73 | 24,56 | 37,71 |
2011-2015 | 40,54 | 21,33 | 38,12 |
2016-2020 | 36,20 | 23,11 | 40,69 |
2021-2024 | 40,13 | 22,73 | 37,13 |
Nguồn: Số liệu của Cục Thống kê và tính toán của tác giả
Tuy vậy, bước sang giai đoạn 2016-2020, tỷ trọng đóng góp của TFP giảm nhẹ xuống 36,20%, trong khi vốn tăng lên 40,69% và lao động nhích lên 23,11%. Mức suy giảm này không hoàn toàn phản ánh sự yếu đi của TFP mà phần lớn là hệ quả của các thách thức khách quan: dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi, biến đổi khí hậu, giá đầu vào tăng cao và đặc biệt là đại dịch COVID-19. Năm 2020 đánh dấu mức sụt giảm nghiêm trọng của TFP, chỉ còn 29,04% - thấp nhất trong toàn bộ giai đoạn 2011-2022. Ngược lại, đóng góp của vốn tăng vọt lên 45,96% và lao động cũng tăng lên 25%. Sự dịch chuyển cơ cấu đóng góp trong năm này phản ánh đúng những bất ổn do đại dịch COVID-19 gây ra: đứt gãy chuỗi cung ứng, giãn cách xã hội khiến nông dân quay lại sản xuất nhỏ lẻ, tăng sử dụng lao động gia đình và vốn tự có, trong khi các yếu tố cốt lõi tạo nên TFP như công nghệ, tổ chức sản xuất hiện đại hay liên kết chuỗi đều bị gián đoạn.
Mặc dù vậy, điểm sáng xuất hiện ngay sau đó. Năm 2021 ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của TFP, với đóng góp lên tới 49,17%. Đây là minh chứng rõ ràng cho khả năng thích ứng nhanh chóng của nông nghiệp Bắc Ninh sau đại dịch. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, phát triển mô hình nhà màng - nhà lưới, sử dụng cảm biến điều khiển từ xa, hệ thống tưới thông minh, truy xuất nguồn gốc QR, sàn thương mại điện tử và phần mềm quản lý trang trại… đã giúp nâng cao hiệu quả canh tác và kiểm soát chi phí sản xuất. Tỉnh cũng tăng tốc chuyển đổi số trong các hợp tác xã, hỗ trợ nông dân tiếp cận kỹ thuật mới, từng bước hiện đại hóa tổ chức sản xuất. Có thể nói, TFP đã trở thành “công cụ phục hồi thông minh” sau cú sốc đại dịch COVID-19, góp phần giữ vững đà tăng trưởng nông nghiệp trong điều kiện “bình thường mới”.
Năm 2022, TFP đạt 37%, tiếp tục chiếm tỷ trọng cao hơn lao động (25,06%) và gần tương đương vốn (37,94%). Trong khi đó, lao động truyền thống dù có xu hướng tăng nhẹ về tỷ trọng nhưng vẫn giữ vai trò thứ yếu. Điều này một mặt phản ánh xu hướng cơ giới hóa và tự động hóa ngày càng rõ nét, mặt khác cho thấy sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ ngày càng mạnh mẽ tại Bắc Ninh - một tỉnh phát triển công nghiệp điển hình.
Giai đoạn 2021-2024 chứng kiến sự trở lại mạnh mẽ và củng cố vai trò trung tâm của TFP trong tăng trưởng nông nghiệp Bắc Ninh, với tỷ lệ đóng góp trung bình đạt 40,13%, cao hơn cả giai đoạn 2016-2020 (36,20%) và tiệm cận mức của giai đoạn 2011-2015 (40,54%). Đây là minh chứng rõ rệt cho quá trình phục hồi và thích ứng nhanh chóng của ngành nông nghiệp sau cú sốc đại dịch.
So với giai đoạn 2011-2015, khi TFP đóng vai trò chủ đạo trong bối cảnh chuyển dịch từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, thì giai đoạn 2021-2024 cho thấy sự phát triển vững chắc hơn về chất lượng, khi các yếu tố công nghệ, tổ chức sản xuất và chuyển đổi số đã thâm nhập sâu rộng hơn vào nền nông nghiệp địa phương. Trong khi đó, so với giai đoạn 2016-2020, vốn chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu và đại dịch COVID-19, thì giai đoạn 2021-2024 khẳng định lại năng lực nội tại và khả năng thích nghi linh hoạt của ngành nông nghiệp Bắc Ninh. Vốn và lao động trong giai đoạn này vẫn đóng vai trò quan trọng nhưng đã dần ổn định và không còn là động lực chính như trong năm 2020.
Tổng thể, TFP đóng vai trò chủ lực và ngày càng củng cố vị thế trong mô hình tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh. Đây là kết quả tích lũy từ quá trình đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao, tổ chức sản xuất theo mô hình hợp tác xã, xây dựng vùng sản xuất tập trung, liên kết chuỗi giá trị và gần đây là chuyển đổi số. Tuy nhiên, để giữ vững và nâng cao hơn nữa vai trò của TFP trong thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển hạ tầng logistics cho nông nghiệp, mở rộng chế biến sâu, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, đầu tư vào nông nghiệp sinh thái thông minh, và đặc biệt là đào tạo lực lượng lao động nông thôn có kỹ năng công nghệ và khả năng hợp tác với doanh nghiệp. Chỉ khi đó, TFP mới có thể tiếp tục là nền tảng bền vững cho tăng trưởng nông nghiệp trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ hiện nay.
Đóng góp của TFP vào ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Kết quả tính toán trong Bảng 2 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2022, TFP là nhân tố chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng GTGT trong ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, thể hiện qua tỷ trọng đóng góp vượt trội so với 2 yếu tố truyền thống là lao động và vốn. Trung bình trong giai đoạn 2011-2015, TFP đóng góp 43,53% vào tăng trưởng GTGT ngành công nghiệp, cao hơn so với vốn (38,35%) và vượt xa lao động (18,12%). Đặc biệt, giai đoạn 2016-2020, TFP tiếp tục giữ vai trò đầu tàu khi tăng lên 47,32%, trong khi đóng góp của vốn và lao động đều giảm xuống lần lượt 35,83% và 16,85%.
Sự gia tăng ổn định của TFP trong suốt hơn một thập kỷ cho thấy Bắc Ninh đang chuyển dịch mạnh từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu vào truyền thống (lao động, vốn) sang tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên hiệu quả sử dụng các nguồn lực và đổi mới công nghệ. Diễn biến này hoàn toàn phù hợp với bối cảnh phát triển công nghiệp thực tế tại Tỉnh. Cụ thể, việc thu hút các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Canon, ABB, Foxconn… đã mang lại không chỉ vốn mà còn là chuyển giao công nghệ, mô hình quản trị hiện đại và tiêu chuẩn sản xuất toàn cầu. Đặc biệt, tổ hợp Samsung Bắc Ninh - đóng góp chủ lực cho giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh - chính là yếu tố lan tỏa công nghệ mạnh mẽ nhất, giúp gia tăng TFP thông qua tích hợp công nghệ cao, sản xuất thông minh, tự động hóa và đào tạo nhân lực chất lượng.
Bảng 2: Đóng góp của các nhân tố vào GTGT của ngành công nghiệp Bắc Ninh
Năm | Đóng góp của TFP | Đóng góp của lao động | Đóng góp của vốn |
2011 | 41,23 | 17,69 | 41,08 |
2012 | 43,40 | 18,62 | 37,98 |
2013 | 43,60 | 18,61 | 37,80 |
2014 | 44,85 | 17,74 | 37,42 |
2015 | 44,59 | 17,96 | 37,46 |
2016 | 45,72 | 17,54 | 36,74 |
2017 | 47,58 | 16,50 | 35,92 |
2018 | 49,66 | 15,38 | 34,96 |
2019 | 48,28 | 16,74 | 34,97 |
2020 | 45,33 | 18,10 | 36,56 |
2021 | 49,45 | 15,34 | 35,21 |
2022 | 48,97 | 15,41 | 35,62 |
2023 | 48,48 | 15,26 | 36,26 |
2024 | 49,94 | 15,10 | 34,96 |
2011-2015 | 43,53 | 18,12 | 38,35 |
2016-2020 | 47,32 | 16,85 | 35,83 |
2021-2024 | 49,21 | 15,28 | 35,51 |
Nguồn: Số liệu của Cục Thống kê và tính toán của tác giả
Không chỉ vậy, Bắc Ninh cũng đã triển khai mạnh mẽ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Tỷ lệ doanh nghiệp nội địa trở thành nhà cung ứng cấp 1, 2 cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng tăng, giúp nâng tỷ lệ nội địa hóa và từ đó cải thiện hiệu quả sản xuất, tức là tăng TFP. Việc chuyển dịch từ các ngành thâm dụng lao động (như dệt may, giấy…) sang các ngành có GTGT cao như điện tử, công nghệ y khoa, cảm biến, thiết bị đeo thông minh, phụ tùng hàng không, công nghiệp bán dẫn… cũng cho thấy định hướng rất rõ của Bắc Ninh trong việc tăng cường đóng góp của TFP. Giai đoạn 2017-2022, TFP luôn dao động ở mức rất cao, từ 47,58% đến 49,66%, trong khi đóng góp của lao động giảm dần, chỉ còn 15,41% năm 2022 - cho thấy quá trình cơ giới hóa, tự động hóa và số hóa đã dần thay thế các hình thức sản xuất thủ công, ít hiệu quả.
Giai đoạn COVID-19 (2020-2021), dù đối mặt với những gián đoạn về chuỗi cung ứng và suy giảm đơn hàng, đóng góp của TFP vẫn ở mức cao - lần lượt là 45,33% và 49,45%, cho thấy sức đề kháng nội tại của ngành công nghiệp Bắc Ninh đến từ việc ứng dụng công nghệ thông minh, quản lý linh hoạt, số hóa sản xuất và truy xuất nguồn gốc, đặc biệt là ở các doanh nghiệp lớn. Đồng thời, Tỉnh đã tích cực triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nội địa thông qua chương trình hỗ trợ, mở rộng cơ hội tham gia chuỗi giá trị sản xuất điện tử, góp phần cải thiện năng suất toàn ngành.
Giai đoạn 2021-2024 đánh dấu bước tiến ổn định và bền vững của TFP trong ngành công nghiệp Bắc Ninh, với mức đóng góp trung bình lên tới 49,21% - cao nhất trong 3 giai đoạn phân tích, vượt cả giai đoạn 2016-2020 (47,32%) và 2011-2015 (43,53%). Điều này cho thấy hiệu quả của quá trình đổi mới công nghệ, tích hợp sản xuất thông minh và chuyển đổi số sâu rộng tại các khu công nghiệp của tỉnh.
Đặc biệt, năm 2024 ghi nhận TFP đạt mức 49,94% - tiệm cận ngưỡng tuyệt đối về đóng góp trong tăng trưởng GTGT, cho thấy ngành công nghiệp Bắc Ninh đang tiến gần đến mô hình phát triển công nghệ cao bền vững. So với giai đoạn 2011-2015 - thời kỳ đầu thu hút FDI, khi TFP chủ yếu đến từ tiếp nhận công nghệ và mô hình quản lý hiện đại của các tập đoàn lớn - thì giai đoạn 2021-2024 cho thấy sự trưởng thành rõ rệt trong năng lực nội sinh, với sự tham gia sâu hơn của các doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng và cải thiện mạnh mẽ hiệu suất sản xuất. Khi giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn củng cố và mở rộng mô hình sản xuất hiện đại thì 2021-2024 là giai đoạn chuyển mình toàn diện, với các sáng kiến như số hóa quy trình sản xuất, tự động hóa dây chuyền, ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đáng chú ý, trong bối cảnh hậu COVID-19, thay vì suy giảm, TFP vẫn duy trì đà tăng, cho thấy khả năng thích ứng và khả năng chống chịu cao của khu vực công nghiệp. Trong khi đóng góp của lao động tiếp tục giảm chỉ còn 15,28%, và vốn giữ ở mức ổn định (35,51%), thì TFP nổi lên như trụ cột duy nhất có xu hướng tăng liên tục.
Tóm lại, TFP không chỉ là trụ cột tăng trưởng hiện tại mà còn là hướng đi chiến lược của ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong dài hạn. Trong bối cảnh mục tiêu đến năm 2030 là đưa Bắc Ninh trở thành trung tâm sản xuất thiết bị điện tử, công nghệ cao hàng đầu cả nước và khu vực, thì duy trì và nâng cao đóng góp của TFP chính là con đường tất yếu để đạt tăng trưởng bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đóng góp của TFP vào ngành dịch vụ tỉnh Bắc Ninh
Kết quả tính toán trong Bảng 3 cho thấy, trong giai đoạn 2011–2022, TFP đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng GTGT của ngành dịch vụ tỉnh Bắc Ninh, phản ánh rõ xu hướng dịch chuyển sang phát triển theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đầu vào. TFP - đại diện cho hiệu quả tổng thể của lao động, vốn và công nghệ - đã có sự gia tăng liên tục, với mức đóng góp trung bình giai đoạn 2011-2015 đạt 41,01%, vượt đóng góp của lao động (14,76%) nhưng vẫn xếp sau vốn (44,23%). Tuy nhiên, sang giai đoạn 2016-2020, TFP đã vượt vốn lần đầu tiên, với tỷ lệ đóng góp đạt 43,43%, trong khi vốn giảm xuống 42,65%. Điều này cho thấy sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành dịch vụ, không còn phụ thuộc quá nhiều vào mở rộng vốn đầu tư mà đang dựa nhiều hơn vào hiệu quả tổ chức, cải tiến công nghệ và chất lượng lao động.
Bảng 3: Đóng góp của các nhân tố vào tăng trưởng GTGT của ngành dịch vụ Bắc Ninh
Năm | Đóng góp của TFP | Đóng góp của lao động | Đóng góp của vốn |
2011 | 39,11 | 15,11 | 45,78 |
2012 | 41,17 | 15,91 | 42,92 |
2013 | 41,46 | 16,11 | 42,44 |
2014 | 42,21 | 13,02 | 44,77 |
2015 | 41,09 | 13,66 | 45,25 |
2016 | 42,52 | 13,86 | 43,62 |
2017 | 44,36 | 13,58 | 42,06 |
2018 | 45,39 | 12,46 | 42,15 |
2019 | 42,96 | 14,75 | 42,29 |
2020 | 41,95 | 14,93 | 43,12 |
2021 | 46,40 | 11,21 | 42,39 |
2022 | 44,93 | 11,52 | 43,55 |
2023 | 44,48 | 11,40 | 44,12 |
2024 | 45,82 | 11,29 | 42,90 |
2011-2015 | 41,01 | 14,76 | 44,23 |
2016-2020 | 43,43 | 13,92 | 42,65 |
2021-2024 | 45,41 | 11,35 | 43,24 |
Nguồn: Số liệu của Cục Thống kê và tính toán của tác giả
Trong những năm qua, Bắc Ninh đã và đang thúc đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin vào thương mại điện tử, logistics và các dịch vụ tài chính - ngân hàng, giáo dục - đào tạo, từ đó làm gia tăng đóng góp của TFP. Điển hình là việc triển khai các nền tảng thanh toán số, hệ thống dữ liệu khách hàng và truy xuất thông tin thông minh trong các lĩnh vực thương mại - bán lẻ và du lịch đã giúp tối ưu hoá vận hành, giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, khu vực dịch vụ cũng hưởng lợi lớn từ hệ thống hạ tầng đồng bộ, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối liên vùng, tạo điều kiện cho dịch vụ vận tải - logistics phát triển, tăng hiệu quả toàn chuỗi cung ứng.
Sự nổi bật của TFP trong năm 2021 và 2022 với mức đóng góp lần lượt là 46,40% và 44,93% - cao hơn đáng kể so với cả vốn và lao động - phản ánh hiệu ứng phục hồi sau đại dịch COVID-19. Trong giai đoạn hậu đại dịch COVID-19, Bắc Ninh nhanh chóng triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ tái cơ cấu, đầu tư số hóa quy trình phục vụ khách hàng, phát triển mô hình kinh doanh online, đồng thời tăng cường quản lý vận hành bằng công nghệ. Đặc biệt, các ngành như giáo dục, y tế, tài chính và thương mại điện tử đã tích cực ứng dụng phần mềm quản trị, nền tảng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, góp phần tăng hiệu quả hoạt động và từ đó nâng cao TFP.
Ngược lại, đóng góp của lao động giảm dần qua các năm, từ mức 15,11% năm 2011 xuống còn khoảng 11,5% vào năm 2022 cho thấy, quá trình thay thế lao động thủ công bằng công nghệ, tự động hóa và chuẩn hóa dịch vụ. Việc giảm tỷ trọng lao động truyền thống cũng phản ánh một xu hướng cơ cấu: dịch chuyển lực lượng lao động sang khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo và khu vực có giá trị gia tăng cao hơn. Điều này giúp tăng năng suất lao động chung nhưng đồng thời đòi hỏi lực lượng lao động dịch vụ còn lại phải có kỹ năng công nghệ cao hơn, linh hoạt hơn.
Giai đoạn 2021-2024 tiếp tục khẳng định vai trò chi phối ngày càng cao của TFP trong tăng trưởng ngành dịch vụ tỉnh Bắc Ninh, với tỷ lệ đóng góp trung bình 45,41%. Đây là bước tiến vượt trội so với giai đoạn 2016-2020 (43,43%) và đặc biệt là so với giai đoạn 2011-2015 (41,01%). Không chỉ vượt qua lao động, vốn đã giảm liên tục cả về tỷ trọng và vai trò, TFP cũng duy trì tỷ lệ cao hơn cả vốn đầu tư trong hầu hết các năm gần đây cho thấy, ngành dịch vụ của Tỉnh đã dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào mở rộng quy mô đầu vào, để chuyển sang phát triển dựa trên chất lượng và hiệu quả. Nếu như giai đoạn 2011-2015 là thời kỳ ngành dịch vụ còn thiên về đầu tư cơ sở vật chất và phát triển theo chiều rộng thì giai đoạn 2016-2020 cho thấy bước ngoặt đáng kể về tổ chức và quản trị dịch vụ, với việc áp dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực then chốt. Tuy nhiên, chính giai đoạn 2021-2024 mới thực sự thể hiện tính bền vững và chiều sâu của quá trình chuyển đổi, nhất là sau cú sốc của đại dịch COVID-19. Các biện pháp phục hồi thông minh như số hóa dịch vụ khách hàng, triển khai thanh toán không tiền mặt, phát triển logistics số và mở rộng thương mại điện tử đã làm tăng mạnh hiệu quả hoạt động, do đó, gia tăng TFP một cách ổn định. Đặc biệt, trong năm 2021 và 2022, TFP lần lượt đạt 46,40% và 44,93%, vượt xa lao động (khoảng 11%) và vốn (42-43%) cho thấy, sự thích ứng nhanh chóng và hiệu quả phục hồi sau đại dịch COVID-19 của các doanh nghiệp dịch vụ trên địa bàn.
Tóm lại, TFP đang giữ vai trò trung tâm trong tăng trưởng ngành dịch vụ tỉnh Bắc Ninh, nhờ hiệu quả từ công nghệ, quản trị và tổ chức hiện đại. Để duy trì vai trò này, Bắc Ninh cần tiếp tục chiến lược đầu tư vào dịch vụ số, logistics thông minh, thương mại điện tử và nhân lực chất lượng cao, đồng thời, phát triển hạ tầng kỹ thuật, trung tâm dữ liệu, và cơ sở kết nối dịch vụ để lan tỏa hiệu quả sản xuất - kinh doanh, từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng tăng trưởng ngành dịch vụ.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu khẳng định vai trò trung tâm của TFP trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững tại Bắc Ninh giai đoạn 2011-2022, đặc biệt trong giai đoạn 2021-2024 với đóng góp lần lượt là 40,13% (nông nghiệp), 49,21% (công nghiệp) và 45,41% (dịch vụ). Những con số này phản ánh hiệu quả của việc tích hợp KHCN, chuyển đổi số và sản xuất thông minh. TFP không chỉ nâng cao giá trị tăng thêm mà còn chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tỉnh theo hướng giảm phụ thuộc vào lao động và vốn, hướng tới phát triển bền vững dựa trên ĐMST.
Tuy nhiên, sự phát triển của TFP tại Bắc Ninh vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Ngành nông nghiệp, dù cải thiện nhờ cơ giới hóa và công nghệ sinh học, vẫn có TFP thấp hơn so với công nghiệp và dịch vụ do hạn chế về quy mô và nguồn lực đầu tư. Trong khi đó, ngành công nghiệp phụ thuộc lớn vào FDI, tiềm ẩn rủi ro nếu công nghệ không được nội địa hóa. Dịch vụ, dù tăng trưởng mạnh nhờ kinh tế số, vẫn chưa khai thác hết tiềm năng từ du lịch văn hóa và dịch vụ công nghệ cao. Ngoài ra, tỷ lệ lao động qua đào tạo (70%) chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế công nghệ cao, làm hạn chế khả năng nâng cao TFP đồng đều giữa các ngành.
Việc sắp xếp đơn vị hành chính từ ngày 1/7/2025 theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội giữa tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Bắc Ninh mới, với trung tâm hành chính đặt tại Bắc Giang, diện tích 4.718,6 km² và dân số trên 3,6 triệu người sẽ mở ra cơ hội lớn trong nâng cao TFP. Sự hợp nhất này không chỉ mở rộng quy mô kinh tế mà còn tạo điều kiện cho liên kết vùng mạnh mẽ hơn, đặc biệt trong công nghiệp (kết nối các khu công nghiệp Bắc Ninh với nguồn nguyên liệu Bắc Giang) và nông nghiệp (tích hợp sản xuất quy mô lớn). Dự kiến, TFP tổng thể có thể tăng thêm 5-10% nhờ tối ưu hóa nguồn lực và hạ tầng chung.
Để tối ưu hóa đóng góp của TFP trong tỉnh Bắc Ninh mới, cần triển khai các giải pháp chiến lược sau:
Thứ nhất, tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), đặc biệt trong nông nghiệp công nghệ cao (nhà kính, IoT) và sản xuất thông minh (AI, robot) để nâng TFP ngành nông nghiệp và công nghiệp vượt mốc 50% vào năm 2030.
Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng số và công nghệ cho lao động, kết hợp với các chương trình hợp tác công - tư để nội địa hóa công nghệ FDI.
Thứ ba, phát triển các nền tảng kinh tế số và du lịch văn hóa (như quan họ, lễ hội) để tăng TFP ngành dịch vụ, hướng tới mục tiêu TFP đóng góp 55% vào GRDP theo Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia. Những định hướng này sẽ giúp tỉnh Bắc Ninh mới duy trì vị thế dẫn đầu về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Levinsohn J. and Petrin A.(2003). Estimating Production Functions Using Inputs to Control for Unobservables. the Review of Economic Studies, 70(2), 317-341.
2. Solow, Robert M. (1956). A Contribution to the Theory of Economic Growth. Quarterly journal of Economics, 70, 65–94.
3. Steven Olley G. and Ariel Pakes. (1996). The denamics of productivity in the telecommunications equipment industry. Econometrica, 64(6), 1263-1297.
4. Tổng cục Thống kê. Điều tra doanh nghiệp. https://www.nso.gov.vn/dieu-tra-doanh-nghiep-nam-2024/
5. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội.
6. Wooldridge J.M. (2005). Introductory Econometrics: A Modern Approach, South-Western College Pub. South-Western College Pub.
Ngày nhận bài: 20/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 21/9/2025; Ngày duyệt đăng: 26/9/2025 |