ThS. Vũ Thu Trang
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Email: vuthutrang578@gmail.com
Tóm tắt
Nông dân luôn được xem là đối tượng yếu thế trong nhiều hoạt động kinh tế với các đối tác khác nhau trong đó có thương lái. Bài viết phân tích dữ liệu khảo sát hộ 1.176 hộ nông dân ở 03 tỉnh Kiên Giang, Long An và Sóc Trăng với hơn 30% số hộ nông dân được quyền quyết định giá khi giao dịch với thương lái. Kết quả phân tích hồi quy logit các yếu tố cho thấy, các yếu tố có ảnh hưởng đến quyền thương lượng của nông dân với thương lái bao gồm: (i) Khả năng tiếp cận thị trường; (ii) Có tham gia vào các tổ chức nông dân; (iii) Khả năng tiếp cận thông tin; (iv) Hỗ trợ từ cơ quan nhà nước và tổ chức phát triển; (v) Quy mô canh tác.
Từ khóa: Quyền thương lượng, nông dân, thương lái, chuỗi giá trị lúa gạo
Abstract
Farmers are always considered a disadvantaged group in transaction to traders or middle man. The article analyzes survey data of 1,176 farming households in Kien Giang, Long An and Soc Trang. There are more than 30% of farming households having the bargaining power on prices when transacting with traders. The results of logistic regression analysis show that factors affecting farmers' bargaining power with traders include: (i) Ability to access markets; (ii) Participation in farmers' organizations; (iii) Ability to access information; (iv) Support from state agencies and development organizations; (v) Farming model.
Keywords: Bargaining power, farmers, traders, rice value chain
GIỚI THIỆU
Quyền thương lượng và lợi ích nhận được từ chuỗi cung ứng của nông dân đã được thảo luận trong nhiều nghiên cứu (Falkowski & cộng sự, 2017; OECD, 2014). Trong chuỗi giá trị nông nghiệp, những người sản xuất – trong đó có nông dân - thường là những người chịu thiệt thòi, những người chế biến và tiêu thụ nông sản thường là những người nắm vai trò chủ động và có lợi trong chuỗi (Hồ Thanh Thủy, 2017; Falkowski & cộng sự, 2017). Nông dân, đặc biệt là những người sản xuất với quy mô nhỏ (gọi tắt là nông hộ hoặc nông dân sản xuất nhỏ), thường khó tiếp cận trực tiếp với doanh nghiệp lớn hoặc người mua trực tiếp (Heinmen, 2002, OECD, 2014) mà thường thông qua trung gian.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với cây trồng chủ đạo là lúa nước và đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng (Ngô Thị Phương Lan, 2016). Tham gia trồng lúa ở Việt Nam chủ yếu là hộ gia đình với quy mô canh tác nhỏ (Nguyễn Đình Cung & cộng sự, 2017). Tương tự như các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng, nông dân có thể bán nông sản cho thương lái thu gom hoặc cho các doanh nghiệp/cơ sở chế biến nông sản (Võ Thị Thanh Lộc & Nguyễn Phú Sơn, 2011). Các hộ nông dân, đặc biệt là hộ nghèo hay hộ nuôi trồng quy mô nhỏ, thường bán trực tiếp nông sản của mình cho thương lái hơn là bán trực tiếp ra thị trường hay bán cho doanh nghiệp (Nguyễn Quốc Nghi, 2015). Quá trình toàn cầu hóa thúc đấy việc kiểm soát chuỗi cung ứng, các hãng chế biến lớn ngày càng chiếm ưu thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu và áp đặt điều kiện hay các tiêu chuẩn lên chuỗi. Khi những đòi hỏi ngày càng tăng lên thì những người nông dân sản xuất nhỏ không có khả năng đáp ứng và dần bị loại ra khỏi chuỗi giá trị (Gereffi, 2009). Như vậy, việc củng cố vai trò của người nông dân thông qua quyền thương lượng với người mua trong chuỗi lại càng cần quan tâm.
Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại hầu như chưa phân tích kỹ các yếu tố ảnh hưởng tới quyền thương lượng của hộ nông dân mà chỉ đề cập đến một cách gián tiếp (Falkowski & cộng sự, 2017; Malak-Rawlikowska & cộng sự, 2019). Các nghiên cứu thường chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa nông dân giữa các nhà chế biến và doanh nghiệp, điều này không đúng với một số chuỗi nông sản ở các nước đang phát triển và có nhiều trung gian(Falkowski & cộng sự, 2017). Bài viết này tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyền thương lượng của nông dân và thương lái, tập trung trong chuỗi giá trị lúa gạo ở một nước nông nghiệp đang phát triển là Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu phần nào đóng góp vào hệ thống lý luận quản trị chuỗi giá trị nông sản, đồng thời, cũng cung cấp các minh chứng và gợi ý các giải pháp cho các nhà quản lý nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị và gia tăng phúc lợi cho người nông dân ở Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Khái niệm quyền thương lượng
Quyền thương lượng (bargining power) giữa hai bên trong một giao dịch được thảo luận ở nhiều nghiên cứu. Marshall (1920) nói đến quyền thương lượng như một khái niệm ngầm định chỉ các yếu tố tác động đến việc quyết định mức lương giữa người lao động và người sử dụng lao động. Fletcher & cộng sự (1961) cho rằng quyền thương lượng thường được định nghĩa xoay quanh khả năng quyết định giá. Cũng xoay quanh giá nhưng Christiansen & cộng sự (1963) cho rằng quyền thương lượng hay sức mạnh thị trường (market power) là khả năng đạt được và duy trì quyền kiểm soát với một hoặc một số yếu tố ảnh hưởng đến giá và thu nhập.
Quyền thương lượng của nông dân trong chuỗi cung ứng không chỉ phụ thuộc vào các tài sản hữu hình mà họ sở hữu mà còn vào cách họ nhận thức điểm mạnh, điểm yêu của bản thân, cũng như của đối tác và môi trường ngành (Falkowski và cộng sự, 2027). Do đó, thước đo quyền thương lượng của người dân có thể dựa trên việc tự nhận thức của họ. Giá cả được coi là yếu tố đại diện cho quyền thương lượng của nông dân.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền thương lượng
Vị thế của người nông dân trong chuỗi không chỉ phụ thuộc vào tài sản họ sở hữu mà còn phụ thuộc vào cách họ nhận thức về vị trí của mình. Do đó, niềm tin của người nông dân về mức độ thay thế cũng được nhiều nghiên cứu quan tâm (Lusk & cộng sự, 2014). Tuy nhiên, điều này cũng khá khó xác định khi niềm tin có thể thay đổi và tùy thuộc nhiều vào trạng thái của người trả lời.
Tổng quan các nghiên cứu về quyền thương lượng của người nông dân với thương lái cho thấy, có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyền thương lượng này, bao gồm cả các yếu tố thuộc về người nông dân và những yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài. Nông dân có khả năng tiếp cận thị trường cao sẽ có ưu thế trong việc quyết định giá cả và phương thức thanh toán với người trung gian. Mặt khác, nông dân có khả năng tiếp cận thị trường thấp sẽ dễ dàng bị kiểm soát hoặc ảnh hưởng, đặc biệt là những người phụ thuộc vào người trung gian (Permadi và Winnarti, 2018). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc tham gia vào các tổ chức cộng đồng (liên kết ngang) có thể mang lại lợi ích cho nông dân giúp tăng cường sức mạnh thương lượng của người bán so với người mua (Trebbin, 2014). Khả năng sở hữu các thiết bị thông tin đại chúng như ti vi hoặc di động cũng tác động đến khả năng thương lượng của nông dân. Sự ra đời của thiết bị di động thu hẹp sự phân tán về giá của nông dân. Tác động của điện thoại di động đến quyền thương lượng về giá đã được thể hiện trong nhiều nghiên cứu và cho kết quả không đồng nhất (Nakasone & cộng sự, 2014). Hỗ trợ kỹ thuật vào nhiều giai đoạn khác nhau từ cán bộ khuyến nông của nhà nước hay các tổ chức phi chính phủ (NGOs) cũng giúp phát triển chuỗi giá trị và gia tăng sự bền vững của giá trị người nông dân nhận được. Việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ sản xuất cho các hộ nông dân nhỏ là rất quan trọng cho sự thành công của các AVC (Chengappa, 2018). Yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến khả năng thương lượng của nông dân được sử dụng trong nhiều nghiên cứu bao gồm quy mô nông trại, khoảng cách đến nhà chế biến/ thị trường (Falkowski & cộng sự, 2017). Các yếu tố cá nhân như tuổi, giới tính, điều kiện sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm có liên quan, khả năng tiếp xúc xã hội và quan điểm về cái mới cũng tác động đến sự tiếp thu thông tin của nông dân (Đỗ Kim Chung, 2011), từ đó tác động đến khả năng tiếp cận thị trường và lợi thế trong thỏa thuận với thương lái.
Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Với cách tiếp cận tập trung vào các yếu tố có thể sử dụng các giải pháp marketing và quản lý để cải thiện và không quá khó để đo lường, từ tổng quan nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra gồm:
H1: Hộ nông dân có khả năng tiếp cận thị trường càng cao thì quyền thương lượng càng lớn
H2: Hộ nông dân có tham gia vào các tổ chức cộng đồng thì quyền thương lượng càng lớn
H3: Hộ nông dân có khả năng tiếp cận thông tin tốt thì quyền thương lượng càng lớn
H4: Hộ nông dân có hỗ trợ từ nhà nước hoặc các tổ chức phát triển thì quyền thương lượng càng lớn
H5: Hộ nông dân có quy mô canh tác càng lớn thì quyền thương lượng càng lớn
Mô hình nghiên cứu đề xuất được thể hiện như Hình.
Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất |
Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu thập được từ khảo sát 1.176 hộ nông dân trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long tại 3 tỉnh Kiên Giang, Long An và Sóc Trăng thuộc dự án “Đánh giá tác động gieo trồng sớm của các hộ trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam”, được thực hiện bởi Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) và Diễn đàn Phát triển Việt Nam, được thực hiện trong giai đoạn 2020-2021. Đây cũng là những tỉnh đóng góp lớn vào sản xuất lúa và có diện tích gieo trồng lớn tại đồng bằng sông Cửu Long. Theo Tachibanick và cộng sự (2012) quy mô mẫu tối thiểu cần xác định là n ≥ 8m + 50, với n là cỡ mẫu và m là số biến độc lập trong mô hình. Với 9 biến độc lập, quy mô mẫu cần tối thiểu sẽ là 122. Số liệu thu về có 1.176 hộ gia đình được khảo sát, hoàn toàn đáp ứng đủ yêu cầu thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố trên đến quyền thương lượng của nông dân với thương lái, tác giả thực hiện 03 mô hình hồi quy logit với biến phụ thuộc là quyền thương lượng giá và các biến độc lập là các yếu tố ảnh hưởng nêu trên. Mô hình 1 với các biến kiểm soát là đặc điểm của người nông dân. Mô hình 2 bao gồm các biến đặc điểm của người nông dân và đặc điểm canh tác. Mô hình 3 bao gồm tất cả các biến độc lập và các biến kiểm soát. Kết quả thu được như sau:
Bảng: Kết quả hồi quy logit các yếu tố ảnh hưởng đến quyền thương lượng giá của nông dân với thương lái
Tên biến | Mô hình 1 | Mô hình 2 | Mô hình 3 | |
---|---|---|---|---|
Khả năng tiếp cận thị trường - Khoảng cách từ ruộng đến chợ nông sản gần nhất (km) | Market_dist |
|
| 0,171* |
Việc tham gia vào các tổ chức nông dân - Là thành viên của tổ chức cộng đồng | Orgmember_d_f |
|
| 0,479** |
Khả năng tiếp cận thông tin - Tivi | TV_d |
|
| 0,871* |
Hỗ trợ từ cơ quan nhà nước và tổ chức phát triển - Trong vòng 3 năm có tham gia tập huấn về trồng lúa | Training_d |
|
| 0,650* |
Quy mô canh tác - Diện tích trồng vụ đông xuân (ha) | DX_landHa |
| 0,108* | 0,206* |
Giới tính | Sex | -0,379** | -0,413** | -1,034* |
Tuổi | Age_F | 0,000 | 0,001 | 0,013 |
Kinh_nghiệm làm nông | Kinh_nghiem | 0,015 | 0,016 | 0,009 |
Số năm đi học | Educ_year_F | 0,009 | 0,006 | -0,033 |
Kiểm định Chi-quare | 13,150** | 21,592* | 74,832* | |
Tỉ lệ dự đoán đúng | 67,8% | 67,8% | 68,4% |
Ghi chú: các mức ý nghĩa tương ứng *; **; *** lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1.
Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả
Kết quả hồi quy cho thấy, kiểm định Chi-square của cả 3 mô hình đều có giá trị Sig nhỏ hơn 0,05, như vậy, với mức ý nghĩa 5%, các mô hình nghiên cứu là phù hợp. Khả năng dự đoán đúng về xác suất người nông dân có quyền thương lượng giá của mô hình 1 và 2 là 67,8%; của mô hình 3 là 68,4% đều lớn hơn 50%. Điều này cũng chứng minh mô hình hồi quy có ý nghĩa trong phân tích thống kê.
Về ảnh hưởng của các yếu, với độ tin cậy 95%, các yếu tố có ảnh hưởng đến quyền thương lượng giá của người nông dân với thương lái bao gồm: (i) khả năng tiếp cận thị trường; (ii) có tham gia vào các tổ chức nông dân; (iii) khả năng tiếp cận thông tin; (iv) hỗ trợ từ cơ quan nhà nước và tổ chức phát triển; (v) quy mô canh tác và (vi) giới tính của người nông dân. Các giả thuyết từ H1 đến H5 đều đúng. Cụ thể:
H1: Hộ nông dân có khả năng tiếp cận thị trường càng cao thì quyền thương lượng càng lớn. Hay nói cách khác, khoảng cách từ hộ nông dân tới chợ nông sản (gần nhất) càng gần thì quyền thương lượng của nông dân càng lớn. Kết quả này tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của Falkowski & cộng sự (2017), Gupta (2015) và Yan & cộng sự (2015).
H2: Hộ nông dân có tham gia vào các tổ chức cộng đồng thì quyền thương lượng càng lớn. Người nông dân cho rằng, khi tham gia vào các tổ chức nông dân, họ sẽ có thêm thông tin về thị trường khi chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về canh tác, thu hoạch và bán nông sản, nhờ đó, mà khả năng thương lượng tăng lên
H3: Hộ nông dân có khả năng tiếp cận thông tin tốt thì quyền thương lượng càng lớn. Nguồn thông tin của các hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long ngoài từ những người xung quanh và tổ chức cộng đồng thì còn phần lớn đến từ ti vi. Nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long có thói quen theo dõi các thông tin về giá nông sản trên các kênh truyền hình địa phương. Họ cho rằng thông tin trên các phương tiện truyền thông chính thức sẽ có căn cứ đáng tin cậy hơn và cũng giúp họ có sự tự tin hơn khi tham gia thương lượng.
H4: Hộ nông dân có hỗ trợ từ nhà nước hoặc các tổ chức phát triển thì quyền thương lượng càng lớn. Tương tự như trong nghiên cứu của Chengappa (2018) và Yan & cộng sự (2017), các hộ nông dân nhận được sự hỗ trợ từ các đơn vị bên ngoài thường có quyền thương lượng tốt hơn do họ nhận được sự tài trợ cần thiết cả về vốn và kỹ thuật, một số có thêm thông tin về thị trường từ các buổi tập huấn cho nông dân.
H5: Hộ nông dân có quy mô canh tác càng lớn thì quyền thương lượng càng lớn. Khối lượng bán ảnh hưởng đáng kể đến giá bán nông sản (Yan & cộng sự, 2015). Swinnen (2007) cũng cho rằng các trang trại có quy mô lớn thì quyền thương lượng của nông dân (người bán) sẽ cao hơn. So với các vùng khác ở Việt Nam, diện tích canh tác của các hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long là khá lớn do tính chất tập trung về đất đai.
Về các yếu tố kiểm soát, chỉ có giới tính có ảnh hưởng đến quyền thương lượng giá trong khi các yếu tố khác như tuổi tác, kinh nghiệm làm nông hay trình độ học vấn chưa có minh chứng về sự tác động. Nữ giới lại có quyền thương lượng nhiều hơn với thương lái so với nam giới. Có thể lý giải điểu này thông qua vai trò của nữ giới khi họ là người mua sắm nhiều hộ có thói quen ghi chép các khoản chi phí và giá bán lúa qua các năm. Việc ghi chép này phần nào giúp họ có thông tin và nắm bắt về sự biến động về chi phí và giá lúa, đồng thời, có thêm căn cứ để thương lượng giá bán lúa với thương lái.
KẾT LUẬN
Nông dân thường được coi là bên yếu thế và nhận được ít giá trị hơn so với các chủ thể khác tham gia trong chuỗi giá trị nông sản. Với chuỗi giá trị lúa gạo ở Việt Nam, người nông dân thường thông qua thương lái để đưa lúa gạo của mình ra thị trường. Trong việc thương lượng giá, thương lái đóng vai trò chủ đạo hơn khi hơn 2/3 số hộ trả lời giá bán trong giao dịch lúa gạo do thương lái quyết định. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền thương lượng giá bán lúa gạo trong nghiên cứu này cũng khá tương đồng với các nghiên cứu trước khi năm giả thuyết nghiên cứu đưa ra đều nhận được kết quả kiểm định có ý nghĩa thống kê, bao gồm: (i) khả năng tiếp cận thị trường; (ii) có tham gia vào các tổ chức nông dân; (iii) khả năng tiếp cận thông tin; (iv) hỗ trợ từ cơ quan nhà nước và tổ chức phát triển; (v) quy mô canh tác. Như vậy, để tăng khả năng thương lượng của nông dân, hướng tới gia tăng giá trị nhận được trong chuỗi giá trị nông sản, các cơ quan quản lý nhà nước có thể gia tăng các cơ hội tiếp cận thị trường, tiếp tục khuyến khích nông dân tham gia vào các tổ chức cộng đồng, đoàn thể; tăng cương khả năng tiếp cận thông tin qua các kênh thông tin đại chúng như ti vi; hỗ trợ vốn và tài chính trong giai đoạn đầu của hoạt động nông nghiệp cần đầu tư lớn và tiếp tục thực hiện các chương trình tập huấn cả về kỹ năng canh tác và chia sẻ thông tin nông vụ. Việc thúc đẩy dồn điền, đổi thửa để gia tăng diện tích canh tác cũng nên tiếp tục được khuyến khích.
Tài liệu tham khảo
1. Chengappa, P.G., (2018), ‘Development of argiculture value chains as a strategy for enhancing farmers’s income’. Agricultural Economics Research Review 2018, 31 (1), 1-12.
2. Đỗ Kim Chung (2011), Giáo trình phương pháp khuyến nông, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Falkowski, J., Malak-Rawlikowska, A., Milczarek-Andrzejewska, D. (2017), ‘Farmers’ self-reported bargaining power and price heterogeneity: Evidence from the dairy supply chain’. British Food Journal Vol. 119 No. 8, 2017 pp. 1672-1686.
4. Fletcher, Lehman B.; Paulsen, Arnold; Kaldor, Donald R.; Stucky, W. G.; Talbot, Ross B.; Davey, Harold W.; Hines, Harold H.; Kolmer, Lee R.; Kutish, Francis A.; Strain, J. R.; Scott, J. T.; Rackham, T. S.; and Nordin, J. A., "Bargaining power in agriculture" (1961). CARD Reports. 14. http://lib.dr.iastate.edu/card_reports/14
5. Hồ Thanh Thủy (2017), ‘Vai trò của liên kết trong sản xuất nông sản’. Tạp chí Giáo dục lý luận, số 269+270 (quý III+IV/2017), 34-40.
6. Malak-Rawlikowska, A., Milczarek-Andrzejewska, D., Fałkowski, J, (2019). Farmers’ Bargaining Power and Input Prices: What Can We Learn from Self-Reported Assessments? Social Sciences, Vol 8, Issue 2, 63. https://doi.org/10.3390/socsci8020063
7. Marshall, A., (1920). Principles of Economics. 8th ed, The Macmilllan Co., New York, p.569.
Nguyễn Đình Cung, Đăng Quang Vinh, Đinh Tuấn Minh, Hà Huy Cương, Đoàn 8. 8. Quang Hưng (2017), Báo cáo rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
9. Ngô Thị Phương Lan (2016), ‘Đặc điểm sản xuất thị trường của hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long’, Tạp chí Phát triển KH&CN, tập 19, số X2-2016, trang 19-31.
10. OECD. 2014. Competition Issues in the Food Chain Industry. DAF/COMP(2014)16. Paris: OECD.
11. Permadi, R., Winnarti, L., (2018), ‘The Analysis of Factor Affecting Farmers’ Accessibility Towards Markets and Its Relation to Farmers’ Bargaining Position’. Journal Manajemen & Agribisnis, Vol. 15 No. 1, March 2018, 73-82.
12. Trebbin, A. (2014). “Linking small farmers to modern retail through producer organizations–Experiences with producer companies in India”. Food policy, 45, 35-44.
13. Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Sơn (2011). Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Khoa học 2011:19a, trang 96-108.
Ngày nhận bài: 15/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 8/9/2025; Ngày duyệt đăng: 16/9/2025 |