ThS. Phạm Châu Giang
Tập đoàn VinaCapital
Email: phamchaugiang81@gmail.com
Tóm tắt
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều biện pháp phòng vệ thương mại từ các thị trường, đặc biệt là thường xuyên bị khởi xướng điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Các vụ việc này không chỉ gia tăng về số lượng mà còn mở rộng về phạm vi mặt hàng và đối tượng, gây tác động đáng kể tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu này phân tích, đánh giá kết quả phòng tránh và ứng phó các cuộc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2024. Đồng thời, làm rõ các hạn chế, bất cập, luận giải các nhóm nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan, từ đó đặt ra các vấn đề cần lưu ý đối với Việt Nam từ cấp độ của Chính phủ, Hiệp hội và doanh nghiệp.
Từ khoá: Chống bán phá giá, chống lẩn tránh, chống trợ cấp, phòng vệ thương mại, xuất nhập khẩu, xuất xứ, WTO
Summary
In the context of deep international economic integration, Viet Nam's export goods are increasingly subject to trade remedy measures from foreign markets, especially frequent investigations into the evasion of such measures. These cases have not only risen in number but have also expanded in terms of the range of affected products and entities, significantly impacting the production and business activities of enterprises. The study analyzes and evaluates Viet Nam’s efforts and outcomes in preventing and responding to anti-circumvention investigations related to trade remedy measures imposed on its export goods during the 2015–2024 period. At the same time, the study identifies existing limitations and shortcomings, and analyzes the underlying causes, both objective and subjective, in order to highlight key issues that require attention from Viet Nam at the levels of government, industry associations, and enterprises.
Keywords: Anti-dumping, anti-circumvention, anti-subsidy, trade remedies, import and export, origin, WTO
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày 11/7/2025, Mỹ thông báo điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp với hộp đựng nắp nhôm của Việt Nam và Thái Lan, đánh dấu lần thứ 40 Việt Nam bị điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM). Trước đó, trong tuyên bố của Tổng thống Trump ngày 2/7/2025, hàng hóa xuất khẩu được sản xuất tại Việt Nam sẽ chịu thuế đối ứng 20%, còn hàng hóa trung chuyển phải chịu mức thuế lên đến 40%. Những động thái này cho thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề lẩn tránh các biện pháp PVTM của nước ngoài, đặc biệt là thuế PVTM. Nếu không có những phân tích toàn diện và giải pháp xử lý quyết liệt, việc lẩn tránh biện pháp PVTM có thể khơi mào cho nhiều lệnh trừng phạt tiếp theo đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, không chỉ từ Mỹ mà còn từ nhiều nước khác trên thế giới. Vậy đâu là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này và Việt Nam cần làm gì để phòng tránh và ứng phó với các cuộc điều tra tương tự trong tương lai?
Để trả lời cho câu hỏi trên, cần nhìn lại tình hình chung của thương mại Việt Nam trong bối cảnh PVTM gia tăng do xu hướng bảo hộ. Trong 5 năm gần đây, tần suất Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM (gồm các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ) tăng đến hơn 3,5 lần so với giai đoạn 20 năm trước. Đây vốn là các công cụ hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp đặc biệt, được các nước áp dụng để bảo vệ sản xuất trong nước và chỉ nhắm đến một số quốc gia cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp bị áp thuế ở những quốc gia này đã tìm cách “di cư” chuỗi sản xuất sang Việt Nam, từ đó tiếp tục xuất khẩu dưới danh nghĩa hàng hóa Việt Nam. Điều này dẫn đến Việt Nam trở thành “tâm điểm” của các cuộc điều tra lẩn tránh thuế PVTM của nước ngoài, không chỉ làm giảm kim ngạch xuất khẩu mà còn tác động tiêu cực tới uy tín của hàng hóa Việt Nam cũng như những hậu quả liên đới khác.
THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI VÀ LẨN TRÁNH PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
Xu hướng gia tăng biện pháp phòng vệ thương mại
PVTM là các biện pháp hạn chế nhập khẩu (phổ biến nhất là tăng thuế, ngoài ra còn có hạn ngạch và cam kết giá) mà một nước áp dụng khi phát hiện hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá, nhận được trợ cấp từ chính phủ hoặc nhập khẩu ồ ạt, gây thiệt hại cho sản xuất nước mình. Mức thuế PVTM thường lớn (nhiều vụ việc lên đến 100% hoặc hơn), tạo động cơ cho một số doanh nghiệp tìm cách lẩn tránh bằng cách thay đổi xuất xứ hàng hóa, mô tả sản phẩm hoặc thay đổi pháp nhân xuất khẩu. Trong đó, phổ biến nhất là việc các công ty bị áp thuế chuyển dịch đầu tư sang nước thứ ba để lấy pháp nhân và xuất xứ mới, tiếp tục xuất khẩu hàng hóa. Để đảm bảo hiệu lực của biện pháp PVTM, nhiều nước đã điều tra những hành vi trên, sau đó mở rộng việc áp dụng thuế PVTM đối với hàng hóa từ nước tiếp nhận đầu tư.
Theo Cục PVTM (Bộ Công Thương), tính đến ngày 15/7/2025, có 6 nước điều tra 40 vụ việc lẩn tránh biện pháp PVTM đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trong đó riêng Mỹ chiếm tới 23 vụ, tiếp theo là Liên minh Châu Âu (EU) (7 vụ) và Thổ Nhĩ Kỳ (7 vụ), Brazil, Canada và Nam Phi (mỗi nước 1 vụ). Đáng chú ý, nếu giai đoạn 1998-2020, Việt Nam chỉ phải chịu 22 vụ điều tra, trung bình chưa đến 1 vụ mỗi năm, thì chỉ trong khoảng 5 năm gần đây (2021-2025), Việt Nam bị 18 vụ điều tra (trung bình 3,6 vụ mỗi năm). Đây là giai đoạn chủ nghĩa bảo hộ "lên ngôi", thay thế cho xu hướng tự do hóa thương mại kéo dài gần 3 thập kỷ kể từ khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập năm 1995.
Đặc điểm nổi bật của các vụ việc
Về sản phẩm bị điều tra
Phần lớn tập trung vào các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và tốc độ tăng trưởng đột biến như nhôm, thép, gỗ, pin năng lượng mặt trời, lốp ô tô,... Theo thống kê của Bộ Công Thương, những mặt hàng bị điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM có kim ngạch xuất khẩu khoảng 20 tỷ USD năm 2024 (chiếm 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam).
Về cách thức điều tra
Cách thức điều tra ngày càng “gây khó” cho doanh nghiệp. Các nước trong quá trình điều tra ít nhiều mang tính áp đặt như Ấn Độ tự khởi xướng điều tra lẩn tránh thuế chống trợ cấp; Mỹ thay đổi tiền lệ trong việc xác định xuất xứ; Indonesia tuyên bố sẽ áp dụng nhiều biện pháp PVTM để hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó, nhiều nước thường xuyên ban hành quy định mới theo hướng yêu cầu cao hơn đối với chính phủ, doanh nghiệp bị điều tra (thời hạn trả lời ngắn, yêu cầu bổ sung nhiều thông tin, khó xin gia hạn...).
Về nước tiến hành điều tra
Hầu hết là các nước mà Việt Nam xuất siêu hàng hóa. Trong đó, Mỹ là nước Việt Nam xuất siêu nhiều nhất (hơn 100 tỷ USD năm 2024) nên cũng là nước điều tra lẩn tránh thuế nhiều nhất (chiếm 57,5% các vụ việc điều tra với Việt Nam). Đáng lưu ý, theo Bộ Thương mại Mỹ, trong 46 vụ việc lẩn tránh biện pháp PVTM do Mỹ điều tra giai đoạn 2015-2024 thì Việt Nam có tên trong 22 vụ việc (chiếm gần một nửa số vụ Mỹ điều tra). Điều này cho thấy khi Mỹ áp thuế PVTM với một nước thì Việt Nam thường được lựa chọn là điểm đến “thay thế” của các nhà sản xuất nước ngoài. Ngoài ra, các nước EU và Thổ Nhĩ Kỳ cũng thường điều tra lẩn tránh thuế PVTM đối với Việt Nam. Trên thực tế, Thổ Nhĩ Kỳ là “cửa ngõ” của hàng hóa vào EU nên có thể gộp 2 chủ thể điều tra này vào cùng nhau. EU cũng là thị trường xuất siêu lớn thứ hai của Việt Nam (hơn 35 tỷ USD năm 2024) nên việc bị EU và Thổ Nhĩ Kỳ thường xuyên điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM cũng không phải là điều gây ngạc nhiên.
Nguyên nhân
Có thể thấy Việt Nam là một trong những tâm điểm của các cuộc điều tra chống lẩn tránh PVTM trên thế giới. Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này có thể kể đến như:
Thứ nhất, vị trí địa lý là một trong những yếu tố nổi bật khiến Việt Nam trở thành một trong những điểm nóng của các cuộc điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Theo thống kê, có đến 80% các vụ việc PVTM trên thế giới đang được áp dụng với các nước Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN…). Chính vì vậy, các doanh nghiệp thuộc những quốc gia bị áp thuế PVTM thường tìm cách dịch chuyển một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, gia công hoặc lắp ráp sang các quốc gia láng giềng, vừa để tận dụng ưu thế chi phí, vừa để “né” các mức thuế cao đang áp dụng tại nước gốc. Thêm vào đó, chi phí logistics cạnh tranh và mạng lưới hiệp định thương mại tự do rộng của Việt Nam càng làm tăng sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp muốn lợi dụng yếu tố vị trí địa lý cho mục đích lẩn tránh PVTM.
Thứ hai, chuỗi cung ứng liên kết chặt chẽ. Trong nhiều năm, một số nước như Trung Quốc và Hàn Quốc luôn nằm trong nhóm đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, đặc biệt ở chiều nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện và bán thành phẩm phục vụ sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước này nhập khẩu phần lớn nguyên liệu hoặc bán thành phẩm từ công ty mẹ tại nước bị áp thuế, thực hiện các công đoạn gia công, lắp ráp cuối cùng tại Việt Nam, sau đó xuất khẩu sang các thị trường lớn dưới xuất xứ Việt Nam. Điều này khiến hàng hóa Việt Nam dễ bị nghi ngờ là “trạm trung chuyển” trong chuỗi cung ứng để né thuế PVTM.
Thứ ba, sự tương đồng về lực lượng lao động và văn hóa. Khi một doanh nghiệp bị áp thuế PVTM, doanh nghiệp có xu hướng chuyển dịch đầu tư tại những nơi có sự tương đồng với địa điểm hiện tại về văn hóa và nguồn lực lao động. Trong số các nước được coi là “địa điểm đầu tư lý tưởng”, Việt Nam là nước có nhiều điểm tương đồng nhất về văn hóa và lực lượng lao động (cả về chất lượng, số lượng và chi phí nhân công) với các nền kinh tế bị áp thuế PVTM, điển hình như: Trung Quốc, Hàn Quốc.
Thứ tư, thiếu cơ chế quốc tế để giám sát việc điều tra. Do không đạt được sự đồng thuận giữa các thành viên WTO, vấn đề xác định thế nào là lẩn tránh biện pháp PVTM đã bị bỏ ngỏ qua nhiều vòng đàm phán quốc tế, dẫn đến thực trạng là các nước được “toàn quyền” trong việc điều tra và kết luận mà không cần theo một chuẩn mực nào.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHÒNG TRÁNH VÀ ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM
Kết quả ứng phó
Các vụ việc điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM đối với Việt Nam không chỉ tác động đến kim ngạch xuất khẩu mà nghiêm trọng hơn là giảm uy tín của hàng hóa Việt Nam. Việc Việt Nam đứng đầu thế giới trong số các nước bị điều tra lẩn tránh PVTM cho thấy, công tác quản lý đầu tư và chứng nhận xuất xứ hàng hóa còn lỏng lẻo. Đây cũng là nguyên nhân các nước liên tục “nhắm đến” hàng hóa Việt Nam trong các động thái bảo vệ hiệu lực của các lệnh áp thuế hiện hữu. Nhận thức được nguy cơ này, nhằm ứng phó với rủi ro lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ, ngày 4/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ” (Đề án 824). Đề án 824 đã tạo nền tảng để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến chống lẩn tránh biện pháp PVTM và xuất xứ hàng hóa. Bộ Công Thương đã xây dựng và vận hành Hệ thống cảnh báo sớm về PVTM, hàng quý gửi danh sách các mặt hàng có nguy cơ cao bị điều tra PVTM và chống lẩn tránh biện pháp PVTM cho các hiệp hội.
Về kết quả ứng phó, cho đến nay, 90% các vụ việc điều tra với hàng hóa Việt Nam đã được đưa ra kết luận có hành vi lẩn tránh và áp thuế mở rộng bằng mức thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp mà nước bị lẩn tránh đang phải áp dụng. Nhiều trường hợp, mức thuế áp dụng lên đến hơn 100% đã triệt tiêu cơ hội xuất khẩu của doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên, trong đa số các vụ việc, Mỹ thường cho phép những doanh nghiệp chứng minh được không có hành vi lẩn tránh, được phép tham gia cơ chế tự xác nhận để không bị áp thuế. Đối với EU, một số doanh nghiệp cũng được miễn trừ khi đưa ra kết luận áp thuế bổ sung với Việt Nam. Đặc biệt, trong vụ việc đầu tiên Canada điều tra, nước này đã kết luận sơ-mi-rơ-moóc nhập khẩu từ Việt Nam không lẩn tránh biện pháp PVTM. Như vậy, mặc dù tỷ lệ vụ việc Việt Nam bị kết luận có hành vi lẩn tránh rất cao, nhưng tỷ lệ kim ngạch bị ảnh hưởng bởi các kết luận này lại không phải quá lớn (khoảng 30%).
Đánh giá chung, Hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện PVTM (trong đó các vụ kiện chống lẩn tránh) không chỉ giúp các cơ quan quản lý chủ động kiểm tra, giám sát mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian rà soát rủi ro, quản lý hồ sơ, quy trình sản xuất nhằm tránh rủi ro bị cáo buộc và điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM và chuẩn bị nguồn lực để tham gia kháng kiện trong trường hợp bị điều tra.
Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc phòng tránh và ứng phó điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM vẫn còn một số hạn chế cần cải thiện.
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý còn chồng chéo. Một số quy định pháp luật về PVTM, chống lẩn tránh biện pháp PVTM, quy tắc xuất xứ và xử lý vi phạm hành chính chưa được điều chỉnh kịp thời để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quy định về xác định "chuyển đổi đáng kể", "gia công giản đơn" hay "giá trị gia tăng" còn chưa rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan trong nước và cơ quan điều tra nước ngoài. Điều này gây khó khăn trong việc chứng minh xuất xứ hợp pháp và bảo vệ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, cơ chế phối hợp liên ngành trong một số trường hợp vẫn còn thiếu tính ràng buộc, dẫn đến sự chậm trễ hoặc trùng lặp trong xử lý các vụ việc phức tạp.
Thứ hai, thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện và năng lực kiểm tra tại địa phương. Tại nhiều địa phương, không có đội ngũ cán bộ chuyên trách về PVTM, cán bộ phụ trách xác minh xuất xứ hoặc quản lý đầu tư nước ngoài còn mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu. Các công cụ, phương pháp giám sát, đánh giá, kiểm tra thực tế tại cơ sở sản xuất chưa đầy đủ, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp FDI cố tình che giấu thông tin hoặc vận hành theo mô hình phức tạp. Tình trạng này có thể dẫn đến việc khó phát hiện sớm các hành vi vi phạm như đầu tư “núp bóng”, khai sai xuất xứ, sử dụng C/O giả hoặc gia công đơn giản nhưng vẫn xin ưu đãi xuất xứ Việt Nam.
Thứ ba, cơ chế theo dõi đầu tư FDI chưa đủ chặt chẽ. Việc theo dõi, kiểm tra các dự án FDI mới chủ yếu tập trung ở giai đoạn thẩm định hồ sơ đầu tư, trong khi khâu kiểm tra sau cấp phép còn hạn chế. Một số dự án đầu tư vào các ngành có nguy cơ cao chưa được giám sát thường xuyên, dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp FDI chỉ thực hiện một số công đoạn gia công đơn giản vẫn đáp ứng được yêu cầu xuất xứ Việt Nam để xuất khẩu nhưng lại bị coi là lẩn tránh biện pháp PVTM theo quy định của nước nhập khẩu. Khả năng chuyển tải bất hợp pháp, gian lận xuất xứ từ các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, chỉ gia công đơn giản hoặc lắp ráp và đưa đi xuất khẩu là có, tuy nhiên, đây chỉ là các hành vi cá biệt, không phản ánh hành vi của cả ngành xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù vậy, nếu không được kiểm soát hiệu quả, những hành vi này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho ngành sản xuất trong nước và cộng đồng doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín quốc gia và vị thế thương mại của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, vai trò kết nối của hiệp hội ngành hàng còn hạn chế. Nhiều hiệp hội chưa có tiếng nói để vận động tất cả các doanh nghiệp thành viên đều tham gia hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra khi có vụ việc phát sinh, cũng như còn hạn chế trong việc vận động các doanh nghiệp trong ngành cùng chia sẻ chi phí thuê luật sư cho các vụ việc. Đặc biệt, một số thị trường như Mỹ thường xuyên điều tra theo phương pháp chọn mẫu (tức là chọn khoảng 2 doanh nghiệp có lượng xuất khẩu lớn nhất trong thời gian điều tra để điều tra và sử dụng kết quả này làm căn cứ kết luận cho các doanh nghiệp còn lại trong ngành), nên việc huy động hỗ trợ từ các doanh nghiệp không bị điều tra mẫu là rất cần thiết.
Thứ năm, năng lực của doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu điều tra. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn chưa nhận thức đầy đủ về nguy cơ bị điều tra chống lẩn tránh và hậu quả nặng nề có thể xảy ra nếu không hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra nước ngoài. Một số doanh nghiệp có tâm lý chủ quan, có thể bị lợi dụng hoặc vô tình tiếp tay cho các hành vi gian lận. Trong khi đó, yêu cầu của các cơ quan điều tra nước ngoài rất nghiêm ngặt về thời hạn, hồ sơ, quy trình truy xuất nguồn gốc. Khi bị điều tra, doanh nghiệp thường lúng túng, không kịp phản ứng hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ, dẫn đến kết luận bất lợi và bị áp thuế cao, mất thị trường xuất khẩu. Ngay cả một số doanh nghiệp lớn cũng có tâm lý chủ quan khi không xuất mặt hàng bị điều tra nên không phản hồi cơ quan điều tra, làm ảnh hưởng đến mức thuế chung của các doanh nghiệp khác trong ngành.
KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
Kết luận
Trong bối cảnh thế giới đang biến động mạnh, cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế gay gắt, vấn đề chống gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp PVTM cũng có thể được sử dụng như một công cụ để hạn chế nhập khẩu. Đây cũng là vấn đề mà nhiều đối tác thương mại của Việt Nam ngày càng quan tâm, đặc biệt là Mỹ và EU.
Việc gia tăng các vụ điều tra chống lẩn tránh đặt ra nhiều nguy cơ cho những ngành bị điều tra nói riêng và xuất khẩu của Việt Nam nói chung. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc bị nước ngoài điều tra, áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM sẽ có những tác động tiêu cực như giảm lợi thế cạnh tranh, dẫn đến mất một phần hoặc toàn bộ thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải bố trí thời gian và nguồn lực để xử lý, thuê tư vấn pháp lý đáp ứng các yêu cầu của cơ quan điều tra nước ngoài dẫn đến tăng gánh nặng tài chính. Trên thực tế, một số vụ việc điều tra chống lẩn tránh của Mỹ kéo dài đến 2-3 năm (gấp đôi một vụ việc điều tra PVTM thông thường), khiến doanh nghiệp càng khó khăn hơn để duy trì xuất khẩu, bị giảm đơn hàng trong thời gian điều tra.
Đề xuất giải pháp
Việc các nước tiến hành điều tra chống lẩn tránh với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng không khẳng định các doanh nghiệp bị điều tra đang lẩn tránh biện pháp PVTM. Do đó, công tác phòng tránh và ứng phó điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cần phải được tiếp tục quan tâm, chú ý trong thời gian tới, để bảo vệ lợi ích chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với Chính phủ, một mặt cần nâng cao hơn nữa hiệu quả của hệ thống cảnh báo sớm, đưa thông tin cảnh báo sớm đến đúng đối tượng cần cảnh báo, tăng cường công tác kiểm tra giám sát về xuất xứ, hoạt động sau đầu tư để ngăn chặn các hành vi lẩn tránh (nếu có) từ sớm, có những chế tài xử phạt đủ để răn đe. Mặt khác, cần nâng cao hiệu quả công tác ứng phó điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM của nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác đầy đủ để tránh ảnh hưởng đến kết quả chung của ngành.
Đối với hiệp hội ngành hàng, cần chủ động theo dõi danh sách cảnh báo sớm để thông tin, định hướng cho các doanh nghiệp thành viên lưu ý; chủ động phản ánh những hành vi lẩn tránh (nếu có) đến cơ quan chức năng; làm cầu nối giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý trong quá trình trao đổi thông tin, phối hợp ứng phó với các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM phát sinh.
Đối với các doanh nghiệp, cần triển khai các biện pháp để duy trì tăng trưởng xuất khẩu, tránh các rủi ro bị điều tra chống lẩn tránh PVTM. Trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần lưu ý một số vấn đề sau:
Một là, theo dõi thông tin cảnh báo sớm để chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh; đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp cũng nhận thức được cần đa dạng hóa mặt hàng, đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc vào một số đối tác thương mại lớn để giảm thiểu rủi ro “cho trứng vào một giỏ” khi có vụ việc điều tra xảy ra. Tuy nhiên, điều này không dễ thực hiện trên thực tế do mỗi thị trường có những quy định về thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, nhu cầu thị hiếu khác nhau.
Hai là, chủ động tìm hiểu quy định về PVTM, chống lẩn tránh biện pháp PVTM, các biện pháp hạn chế nhập khẩu của nước nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu nguyên liệu từ các nhà cung cấp nằm trong danh sách các doanh nghiệp vi phạm quy định của nước nhập khẩu.
Ba là, chủ động đa dạng nguồn nguyên liệu, tránh phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ 1 nước, tăng cường sử dụng các nguyên liệu được sản xuất trong nước hoặc từ các nguồn cung cấp không bị nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp PVTM; tăng tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản phẩm được tạo ra tại doanh nghiệp.
Bốn là, không tiếp tay cho các hành vi lẩn tránh biện pháp PVTM, gian lận xuất xứ để tránh phải đối mặt với các vụ việc điều tra trốn thuế, chống lẩn tránh biện pháp PVTM; kịp thời phát hiện các hành vi lẩn tránh thuế PVTM và thông báo cho Cục PVTM để có các biện pháp phù hợp.
Năm là, triển khai hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu rõ ràng, minh bạch; duy trì hệ thống sổ sách kế toán theo chuẩn quốc tế, lưu giữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ.
Sáu là, khi bị điều tra chống lẩn tránh PVTM, cần bố trí nguồn lực, hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra của nước nhập khẩu và các cơ quan quản lý cũng như hiệp hội để được hỗ trợ kịp thời.
Tài liệu tham khảo:
1. Cục Phòng vệ thương mại (2021, 2022, 2023). Báo cáo phòng vệ thương mại thường niên các năm 2021, 2022, 2023.
2. Chosun Biz (2025). Leaders assess Trump's stance on tariffs as Vietnam, Thailand, and ..., 21 April. [BizChosun], Accessed: 20 July 2025.
3. Lê Triệu Dũng (2025). Các giải pháp ứng phó với biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành kinh doanh thương mại.
4. Chính phủ (2019). Nghị quyết 119/NQ‑CP ngày 31/12/2019 về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp.
5. The Office of the United States Trade Representative (2025). Thailand, Southeast Asia & Pacific. https://ustr.gov/countries-regions/southeast-asia-pacific/thailand (Accessed: 20 July 2025).
6. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định 824/QĐ-TTg ngày 4/7/2019 phê duyệt Đề án tăng cường quản lý chống lẩn tránh và gian lận xuất xứ.
7. Tổng cục Hải quan (2025). Báo cáo chuyên đề về hậu kiểm xuất xứ và kiểm tra sau thông quan (2022-2024).
8. Trung tâm WTO và Hội nhập (2023). Báo cáo rà soát pháp luật và đề xuất cải thiện cơ chế phòng vệ thương mại của Việt Nam, Hà Nội.
9. Trung tâm WTO và Hội nhập (2024). Báo cáo Bức tranh xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam năm 2024.
10. U.S. Department of Commerce - Enforcement and Compliance (2025). Anticircumvention Inquiries.
11. WTO (1994). Agreement on Rules of Origin and Agreement on Anti-Dumping.
Ngày nhận bài: 5/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 8/8/2025; Ngày duyệt đăng: 12/8/2025. |