Mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP: Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), nghiên cứu phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2024.

Hồ Ngọc Khương

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Email: khuonghn@hcmute.edu.vn

Nguyễn Thị Thanh Thảo

Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Email: thaontt236012@sdh.uel.edu.vn

Tóm tắt

Sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), nghiên cứu phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2024. Kết quả cho thấy tiêu dùng hộ gia đình và thị trường lao động là động lực chính của tăng trưởng; năng suất lao động và các yếu tố môi trường có tương quan âm nhẹ; đầu tư nước ngoài, chi tiêu công và thương mại quốc tế có vai trò bổ trợ với tác động ngắn hạn hạn chế. Các hàm ý chính sách tập trung củng cố tổng cầu, nâng cao chất lượng lao động, thúc đẩy tăng trưởng xanh và cải thiện hiệu quả đầu tư nhằm duy trì tăng trưởng hiệu quả.

Từ khóa: Kinh tế vĩ mô, tăng trưởng GDP, tương quan Pearson

Summary

Using time-series data from the World Bank and the General Statistics Office (now the National Statistics Office under the Ministry of Finance), the study analyzes the linear relationship between macroeconomic factors and Viet Nam's GDP growth during the period 2010-2024. The results indicate that household consumption and the labor market are the main drivers of growth; labor productivity and environmental factors have a slight negative correlation; while foreign investment, public spending, and international trade play a supplementary role with limited short-term effects. The policy implications emphasize the need to strengthen aggregate demand, improve labor quality, promote green growth, and enhance investment efficiency to maintain effective economic growth.

Keywords: macroeconomics, GDP growth, Pearson correlation

GIỚI THIỆU

Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu trọng tâm trong chiến lược phát triển của các quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã trải qua quá trình chuyển đổi cơ cấu sâu rộng, từ nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, qua đó duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP tương đối ổn định, ngay cả khi đối mặt với các biến động kinh tế khu vực và toàn cầu. Việc nhận diện và xác định các yếu tố quyết định tăng trưởng trở nên cần thiết để thiết kế chính sách phát triển ổn định và bền vững (Barro, 1991; Solow, 1956).

Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tham gia lao động, hiệu quả thương mại quốc tế, chi tiêu công và năng suất lao động từ lâu đã được chứng minh là có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế (Borensztein và cộng sự, 1998; Okun, 1962). Bên cạnh đó, các vấn đề môi trường như phát thải CO2 và khí nhà kính ngày càng được quan tâm trong bối cảnh toàn cầu thúc đẩy mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Ở nền kinh tế mở như Việt Nam, sự kết hợp giữa yếu tố kinh tế vĩ mô và môi trường đóng vai trò then chốt trong việc duy trì tăng trưởng dài hạn mà không đánh đổi bằng suy thoái môi trường.

Tuy đã có nhiều nghiên cứu phân tích tác động của các biến số kinh tế vĩ mô riêng lẻ đến tăng trưởng GDP tại Việt Nam, song vẫn còn thiếu những nghiên cứu đồng thời xem xét một tập hợp đầy đủ các biến kinh tế vĩ mô và môi trường gần đây. Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này nhằm: (i) phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa tốc độ tăng trưởng GDP và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô - môi trường của Việt Nam giai đoạn 2010-2024; và (ii) đề xuất hàm ý chính sách nhằm tối đa hóa hiệu quả tăng trưởng, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững. Kết quả dự kiến sẽ cung cấp bằng chứng thực nghiệm phục vụ quá trình hoạch định chính sách trong bối cảnh Việt Nam hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

Chi tiêu tiêu dùng là một yếu tố cốt lõi trong việc thúc đẩy sản lượng và tăng trưởng kinh tế ngắn hạn thông qua tác động đến tổng cầu. Theo Keynes (1936), khi tổng cầu suy giảm, đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái, việc kích thích chi tiêu tiêu dùng có thể giúp nền kinh tế phục hồi. Khi tiêu dùng tăng, tổng cầu tăng, dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc dân tăng theo cơ chế số nhân. Cụ thể, một đồng chi tiêu tiêu dùng bổ sung sẽ kích thích sản xuất, tạo thêm việc làm và thu nhập, từ đó thúc đẩy GDP tăng vượt mức chi tiêu ban đầu. Bên cạnh đó, chi tiêu chính phủ là một thành phần quan trọng của tổng cầu, do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng kinh tế. Trong ngắn hạn, khi tăng chi tiêu công như đầu tư vào cơ sở hạ tầng hoặc trợ cấp, có thể kích thích tổng cầu thông qua hiệu ứng số nhân. Đặc biệt trong thời kỳ suy thoái, khi khu vực tư nhân giảm tiêu dùng và đầu tư, chi tiêu công có thể bù đắp sự thiếu hụt này, tạo việc làm và thu nhập, từ đó thúc đẩy GDP tăng trưởng.

Định luật Okun mô tả mối quan hệ nghịch biến giữa thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Theo Okun (1963), khi tỷ lệ thất nghiệp giảm, GDP thực tế tăng vượt mức tiềm năng, và ngược lại. Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng tuyển dụng, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Song song đó, mô hình Harrod-Domar nhấn mạnh rằng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả sử dụng vốn, được đo bằng tỷ lệ vốn trên sản lượng. Theo Harrod (1939) và Domar (1946), để đạt được tăng trưởng cao, nền kinh tế cần duy trì tỷ lệ đầu tư trên GDP cao và sử dụng vốn hiệu quả. Hơn nữa, lý thuyết tăng trưởng, từ mô hình cổ điển của Solow đến các mô hình hiện đại, đều khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế bền vững chủ yếu đến từ nâng cao năng suất, đặc biệt là năng suất lao động và năng suất các yếu tố. Solow (1957) chỉ ra rằng, trong dài hạn, việc chỉ tăng lao động hoặc vốn sẽ gặp giới hạn do quy luật lợi suất giảm dần. Để duy trì tăng trưởng, nền kinh tế cần cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn lực thông qua tiến bộ công nghệ và đổi mới.

FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua 2 kênh chính: cung cấp vốn và chuyển giao công nghệ. Borensztein và cộng sự (1998) chỉ ra rằng FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn cho đầu tư mà còn nâng cao năng suất thông qua việc chuyển giao công nghệ tiên tiến và kỹ năng quản lý, giúp tăng năng suất lao động, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP ở các quốc gia tiếp nhận FDI. Ngoài ra, thương mại quốc tế, bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế dài hạn. Grossman và Helpman (1993) lập luận rằng mở cửa thương mại thúc đẩy tăng trưởng thông qua việc mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực theo lợi thế so sánh và quan trọng nhất là thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tri thức giữa các quốc gia.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường thường được phân tích thông qua đường cong Kuznets môi trường. Theo Narayan và cộng sự (2016), ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP thường đi kèm với suy thoái môi trường, do ô nhiễm tăng lên từ các hoạt động công nghiệp. Tuy nhiên, khi thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng nhất định, xã hội bắt đầu đầu tư vào công nghệ sạch hơn và các chính sách bảo vệ môi trường, dẫn đến ô nhiễm đạt đỉnh rồi giảm dần.

DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian của Việt Nam giai đoạn 2010--2024. Các yếu tố được thu thập từ cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổng cục Thống kê, bao gồm: tăng trưởng GDP hàng năm (GDP_growth, %); tăng trưởng tiêu dùng hộ gia đình (Tieudung, %); tỷ lệ thất nghiệp (Thatnghiep, %); tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (Tyle_Laodong, %); đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI, % GDP); tổng vốn đầu tư toàn xã hội (Vondautu, % GDP); xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (Xuatkhau, % GDP); nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (Nhapkhau, % GDP); cán cân thương mại (Thuongmai, % GDP); phát thải CO2 (CO2, triệu tấn); chi tiêu chính phủ (ChitieuCP, % GDP); GDP bình quân trên mỗi lao động (Nangsuat_LD, USD cố định 2017); tổng lượng khí thải nhà kính (Khinhakinh, triệu tấn CO2 tương đương). Dữ liệu được kiểm tra và xử lý để đảm bảo tính toàn vẹn trước khi phân tích bằng cách loại bỏ các giá trị thiếu (NA). Phân tích được thực hiện bằng ngôn ngữ R, sử dụng các gói ggplot2, corrplot và stats để tính toán và trực quan hóa dữ liệu.

Nghiên cứu sử dụng phân tích tương quan Pearson: Hệ số tương quan Pearson (r) mô tả mức độ và chiều hướng của mối quan hệ tuyến tính giữa 2 biến ngẫu nhiên (Pearson, 1895). Trong nghiên cứu này, hệ số r được tính giữa GDP_growth và từng biến giải thích để đánh giá mối quan hệ tuyến tính. Công thức tổng quát của hệ số tương quan Pearson được thể hiện như sau:

Trong đó: ​xi: giá trị của một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô - môi trường tại quan sát (năm) thứ i; ​yi: giá trị của tốc độ tăng trưởng GDP tại quan sát thứ i; Mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP: Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam​: giá trị trung bình của chỉ tiêu kinh tế vĩ mô - môi trường và tốc độ tăng trưởng GDP. Giá trị r nằm trong khoảng [-1, +1], với: r > 0: mối tương quan dương (2 biến cùng chiều); r r| càng gần 1, mối quan hệ tuyến tính càng mạnh.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN NGHIÊN CỨU

Kết quả phân tích ma trận tương quan Pearson (Hình 1) cho thấy mức độ liên hệ tuyến tính rất khác nhau giữa tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam và các biến kinh tế vĩ mô - môi trường giai đoạn 2010-2024. Nhìn chung, các yếu tố thuộc tổng cầu nội địa và thị trường lao động có mối tương quan chặt chẽ nhất với tăng trưởng, trong khi nhiều yếu tố khác (như nhóm môi trường, thương mại quốc tế, chi tiêu chính phủ) thể hiện tương quan yếu hơn với tăng trưởng GDP hàng năm.

Hình 1: Ma trận tương quan Pearson giữa các biến kinh tế vĩ mô và môi trường của Việt Nam, giai đoạn 2010-2024

Mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP: Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán dữ liệu từ WB trên R

Tiêu dùng hộ gia đình có tương quan dương mạnh nhất với tăng trưởng GDP (r = +0.85), những năm kinh tế tăng trưởng cao thường đi kèm với mức tăng tiêu dùng mạnh mẽ. Trong giai đoạn 2010-2024 tại Việt Nam, tiêu dùng hộ gia đình tăng ổn định song song với thu nhập, đặc biệt sau đợt COVID-19, chi tiêu tiêu dùng nội địa phục hồi bùng nổ, trở thành động lực chính giúp GDP tăng trưởng đáng kể.

Tăng trưởng GDP có mối tương quan nghịch chiều đáng kể với tỷ lệ thất nghiệp (r = -0,49), phù hợp với định luật Okun. Trong giai đoạn 2010-2024, thất nghiệp ở Việt Nam nhìn chung duy trì mức rất thấp (chỉ khoảng 2-3%), phản ánh thị trường lao động gần mức toàn dụng nhờ khu vực phi chính thức lớn hấp thụ lao động. Tuy nhiên, những biến động nhỏ năm 2020-2021, do tác động của CoOVID-19, tỷ lệ thất nghiệp chung tăng nhẹ, trùng hợp với 2 năm tăng trưởng GDP xuống mức 2-3%. Ngược lại, khi kinh tế phục hồi mạnh năm 2022, thất nghiệp giảm khoảng hơn 2,3%. Tương tự, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có tương quan dương trung bình với tăng trưởng (r = +0,58). Những năm GDP tăng cao thường đi kèm với nhiều người tham gia thị trường lao động hơn, và ngược lại, khi kinh tế khó khăn, một bộ phận lao động tạm thời rời khỏi thị trường việc làm. Chẳng hạn, trong 2 năm đại dịch 2020-2021, tỷ lệ tham gia lao động giảm đáng kể do giãn cách, trùng hợp với tăng trưởng suy giảm. Đến năm 2022, khi kinh tế phục hồi mạnh, tỷ lệ tham gia lao động tăng trở lại gần mức trước dịch hơn 76%, phản ánh nhiều người trở lại thị trường việc làm.

Mặt khác, hệ số tương quan giữa tốc độ tăng trưởng GDP và mức năng suất lao động là âm nhẹ. Mối tương quan này không đồng nghĩa với việc năng suất cao làm GDP giảm, mà chủ yếu phản ánh sự khác biệt bản chất giữa mức tuyệt đối và tốc độ tăng. Trong giai đoạn 2010-2024, năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng đều hàng năm nhờ tích lũy vốn, cải thiện kỹ năng và đổi mới công nghệ. Những năm GDP tăng chậm (2020-2021), năng suất lao động vẫn có thể tiếp tục tăng nhờ cắt giảm lao động dư thừa hoặc chuyển dịch cơ cấu sang các ngành có năng suất cao hơn, làm mối quan hệ tuyến tính đồng thời giữa 2 chỉ tiêu trở nên âm nhẹ.

Phát thải CO2 và khí thải nhà kính có tương quan yếu với tăng trưởng GDP (r = -0.27), trái với dự đoán từ đường cong Kuznets môi trường về mối quan hệ dương trong giai đoạn công nghiệp hóa. Từ 2010-2024, phát thải CO2 tăng từ 150 triệu tấn lên 350 triệu tấn, song song với tăng trưởng GDP, nhưng tương quan âm có thể do chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành dịch vụ và chế biến chế tạo ít carbon hơn và các chính sách xanh (như năng lượng tái tạo) bắt đầu được áp dụng từ 2020, làm giảm cường độ phát thải. Việt Nam cam kết net-zero năm 2050 tại COP26, nhưng cần đầu tư mạnh hơn vào công nghệ sạch để cân bằng tăng trưởng và bảo vệ môi trường.

Ngoài các yếu tố chính có mối tương quan mạnh, phần lớn các biến kinh tế vĩ mô khác cho thấy mức liên hệ tương đối yếu với tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2010-2024. Cụ thể, FDI có hệ số tương quan dương nhẹ (r = +0,32), phản ánh vai trò bổ trợ nhưng chưa trở thành động lực ngắn hạn của tăng trưởng. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở độ trễ tác động của các dự án FDI thường cần thời gian để hoàn thiện hạ tầng, lắp đặt dây chuyền, đào tạo nhân lực và đi vào sản xuất, do đó hiệu quả kinh tế thường thể hiện rõ hơn trong trung và dài hạn. Chi tiêu chính phủ cũng chỉ có tương quan dương rất thấp, bởi ngân sách tập trung chủ yếu vào các dự án hạ tầng và an sinh xã hội - những lĩnh vực tạo nền tảng tăng trưởng nhưng ít tạo ra bứt phá tức thời về GDP. Đối với nhóm yếu tố ngoại thương, xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại đều có hệ số tương quan âm yếu với tăng trưởng, phản ánh đặc điểm của nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam, nơi tăng trưởng xuất khẩu thường đi kèm gia tăng nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc để phục vụ sản xuất, làm cho đóng góp ròng của xuất khẩu vào GDP biến động mạnh và khó duy trì ổn định. Thêm vào đó, các cú sốc bên ngoài như xung đột Nga - Ukraine hay bất ổn tại Trung Đông ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại và chuỗi cung ứng, từ đó làm suy giảm tính ổn định của mối quan hệ giữa ngoại thương và tăng trưởng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gần như không cho thấy tương quan rõ rệt với GDP, cho thấy sự khác biệt trong cơ cấu đầu tư công - tư và hạn chế về hiệu quả phân bổ, sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Hình 2: Biểu đồ phân tán thể hiện mối quan hệ tuyến tính giữa tốc độ tăng trưởng GDP và các yếu tố kinh tế vĩ mô - môi trường của Việt Nam

Mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tăng trưởng GDP: Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán dữ liệu từ WB trên R

Biểu đồ phân tán kèm đường hồi quy (Hình 2) cho thấy tiêu dùng hộ gia đình và tỷ lệ tham gia lao động có mối quan hệ dương rõ rệt với tăng trưởng GDP, trong khi thất nghiệp có quan hệ âm tương đối mạnh. Vốn đầu tư và FDI thể hiện quan hệ dương nhẹ, phản ánh vai trò bổ trợ với tác động chủ yếu trong trung và dài hạn. Ngược lại, các yếu tố môi trường (CO2, khí nhà kính), năng suất lao động và thương mại cho thấy mốiquan hệ yếu hoặc âm nhẹ, phù hợp với đặc điểm cơ cấu kinh tế, độ trễ tác động và ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Phân tích mối tương quan giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô - môi trường và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2010-2024 cho thấy: (i) tiêu dùng hộ gia đình là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng; (ii) thị trường lao động duy trì mức thất nghiệp thấp và tỷ lệ tham gia cao đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ phục hồi sau các cú sốc kinh tế; (iii) năng suất lao động tăng đều, nhưng mối tương quan âm nhẹ với tăng trưởng phản ánh sự khác biệt giữa xu hướng dài hạn và biến động ngắn hạn của GDP; (iv) các yếu tố môi trường (CO2, khí nhà kính) cho thấy cơ hội thúc đẩy tăng trưởng xanh khi không có mối tương quan dương mạnh với tăng trưởng; (v) FDI, chi tiêu công và thương mại quốc tế có tác động bổ trợ, song ảnh hưởng ngắn hạn còn hạn chế, chủ yếu phát huy hiệu quả trong trung và dài hạn.

Từ các phát hiện nghiên cứu, một số hàm ý chính sách nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định và hiệu quả: (i) duy trì và kích thích tổng cầu nội địa, đặc biệt thông qua chính sách hỗ trợ tiêu dùng hộ gia đình và thu nhập khả dụng; (ii) tăng cường chất lượng thị trường lao động, nâng cao kỹ năng và khả năng thích ứng của lực lượng lao động để duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp; (iii) thúc đẩy cải thiện năng suất lao động gắn với đổi mới công nghệ và tái cơ cấu ngành; (iv) phát triển tăng trưởng xanh, giảm cường độ phát thải thông qua đầu tư vào năng lượng tái tạo và công nghệ sạch; (v) nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI, đồng thời tối ưu hóa chi tiêu công và chính sách thương mại.

(*) Nhóm tác giả cảm ơn sự tài trợ kinh phí của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM qua đề tài với mã số T2025-81.

Tài liệu tham khảo:

1. Barro, R. J. (1991). Economic growth in a cross section of countries. The quarterly journal of economics, 106(2), 407-443.

2. Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J. W. (1998). How does foreign direct investment affect economic growth?. Journal of international Economics, 45(1), 115-135.

3. Domar, E. D. (1946). Capital expansion, rate of growth, and employment. Econometrica, Journal of the Econometric Society, 137-147.

4. Grossman, G. M., & Helpman, E. (1993). Innovation and growth in the global economy. MIT press.

5. Harrod, R. F. (1939). An essay in dynamic theory. The economic journal, 49(193), 14-33.

6. Keynes, J. M. (1937). The general theory of employment. The quarterly journal of economics, 51(2), 209-223.

7. Narayan, P. K., Saboori, B., & Soleymani, A. (2016). Economic growth and carbon emissions. Economic Modelling, 53, 388-397.

8. Okun, A. M. (1963). Potential GNP: its measurement and significance. Cowles Foundation for Research in Economics at Yale University.

9. Pearson, K. (1895). VII. Note on regression and inheritance in the case of two parents. Proceedings of the royal society of London, 58(347-352), 240-242.

10. Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. The quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.

11. Solow, R. M. (1957). Technical change and the aggregate production function. The review of Economics and Statistics, 39(3), 312-320.

Ngày nhận bài: 20/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/8/2025; Ngày duyệt đăng: 25/8/2025