GS.TS. Đặng Đình Đào
Trường Đại học Thủy lợi
Tóm tắt
Nguồn nhân lực logistics là một bộ phận cấu thành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành logistics. Hiện nay, nguồn nhân lực logistics đang thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng; công tác đào tạo và phát triển nguồn lực này còn nhiều bất cập. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả phân tích về thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Từ khóa: Logistics, hệ thống logistics, nhân sự logistics, mã ngành đào tạo, nguồn nhân lực logistics, đào tạo nguồn nhân lực logistics
Summary
Logistics human resources are a crucial component of the national logistics system. Currently, the logistics workforce in Viet Nam faces shortages in both quantity and quality, and the training and development of logistics human resources remain inadequate at most levels. Within the scope of this study, the author analyzes the training and development of logistics human resources in Viet Nam to enhance training quality and support the implementation of Resolution No. 57-NQ/TW dated December 22, 2024, issued by the Politburo on breakthroughs in science, technology, innovation, and national digital transformation.
Keywords: Logistics, logistics system, logistics human resources, training discipline code, logistics human resources, logistics human resource training
ĐẶT VẤN ĐỀ
Logistics là ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển sản xuất - kinh doanh của nhiều ngành, địa phương và cả nền kinh tế. Tuy nhiên, hạn chế về nguồn nhân lực logistics có chất lượng đang là rào cản cho sự phát triển của ngành này. Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 531/QĐ-TTg ngày 1/4/2021 đã xác định, logistics cùng với du lịch, công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính - ngân hàng là 4 ngành dịch vụ hàng đầu được ưu tiên phát triển đến năm 2050. Tại Nghị quyết số 163/2022/NQ-CP ngày 16/12/2022, Chính phủ cũng nhấn mạnh, logistics là ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Nghị quyết đã đề ra các nhiệm vụ cho các địa phương và các bộ, ngành về đào tạo, nâng cao nhận thức và chất lượng nhân lực logistics ở nước ta trong những năm tới.
Hiện nay, nguồn nhân lực logistics đang thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics còn nhiều bất cập. Vì vậy, nghiên cứu này tiến hành phân tích chính sách, đánh giá tình hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics hiện nay và những kết quả bước đầu của ngành logistics những năm gần đây. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển nguồn nhân lực logistics trong bối cảnh mới, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS
Hiện nay, nguồn nhân lực logistics Việt Nam đang đối mặt với nhiều rào cản. Là lĩnh vực mang tính liên ngành, có tính kinh tế - kỹ thuật, có tính chuyên nghiệp và yêu cầu kỹ năng cao, nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực logistics cần được đào tạo một cách hệ thống và phải được trang bị đầy đủ các kiến thức chuyên môn và các kỹ năng cần thiết. Nhưng trên thực tế, nguồn nhân lực logistics hiện còn thiếu và yếu, đây là một trong những nút thắt cản trở sự phát triển và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và các địa phương, từ đó ảnh hưởng đến mức đóng góp của các dịch vụ logistics cho ngân sách nhà nước và GDP.
Số lao động trong lĩnh vực logistics hiện nay chủ yếu được đào tạo tại các trường đại học kinh tế và quản trị kinh doanh. Các môn học “cốt lõi” của ngành logistics thường bao gồm các học phần: (1) Kinh tế thương mại - dịch vụ; (2) Quản trị logistics căn bản; (3) Kinh doanh dịch vụ logistics; (4) Quản trị doanh nghiệp logistics; (5) Định mức kinh tế - kỹ thuật - Cơ sở trong kinh doanh dịch vụ logistics; (6) Hoạt động logistics và Thương mại doanh nghiệp; (7) Kinh doanh kho và bao bì trong logistics; (8) Hàng hóa và thương hiệu trong logistics; (9) Nghiệp vụ vận tải và Giao nhận hàng hóa quốc tế; (10) Quản trị Vận tải đa phương thức; (11) Nghiệp vụ Hải quan; (12) Nghiệp vụ Xuất Nhập khẩu; (13) Quản trị cảng biển trong hệ thống logistics… Tuy nhiên, các môn học này thường được nhiều trường thay thế bằng các học phần trong chương trình quản trị kinh doanh, như Quản trị vận hành; Quản trị chiến lược; Quản trị sự thay đổi; Quản trị kinh doanh quốc tế; Quản trị chất lượng; Quản trị văn phòng,... Do dựa vào các học phần sẵn có của ngành quản trị kinh doanh, nên chương trình giảng dạy còn chung chung, thiếu tính định hướng nghề nghiệp, thiếu đi phần lý thuyết nền tảng logistics, học phần cốt lõi và nghiệp vụ chuyên sâu kinh tế - kỹ thuật logistics… trong khi logistics lại là lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật tổng hợp, có tính liên ngành. Điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo cũng như sự phát triển của hệ thống logistics quốc gia và vùng lãnh thổ trong phát huy các tiềm năng, lợi thế phát triển nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp đã có nhiều giải pháp tích cực để cải thiện và nâng cao nguồn nhân lực logistics cả về số lượng và chất lượng. Các cơ sở đào tạo cũng đã và đang đẩy mạnh tuyển sinh logistics với nhiều hình thức đào tạo đa dạng, như: chính quy, tại chức, bồi dưỡng, đào tạo tại doanh nghiệp... nhằm góp phần bổ sung nguồn nhân lực, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực, đáp ứng sự phát triển của ngành logistics. Tuy nhiên, tình hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics đến nay vẫn còn bộc lộ một số bất cập:
Một là, chưa có một khung chương trình đào tạo nguồn nhân lực logistics cơ bản và hệ thống theo định hướng nghề nghiệp tại các trường đại học Việt Nam có mở ngành đào tạo logistics. Vì thế, khi nhu cầu nguồn lực logistics của nền kinh tế quốc dân tăng nhanh đã xảy ra hiện tượng “trăm hoa đua nở” trong xây dựng chương trình đào tạo và tuyển sinh ngành Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng. Bộ Giáo dục và Đào tạo do đó đã sử dụng công cụ quản lý về điều kiện mở ngành, yêu cầu người đứng ngành phải là Tiến sĩ kinh tế công nghiệp.
Các giáo trình, tài liệu tham khảo ngành Logistics hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế so với các ngành học khác. Mặc dù hiện tại, trên thị trường đã có một số tài liệu tham khảo tiêu biểu như: Phát triển dịch vụ logistics ở nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế; Logistics - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam; Một số vấn đề về phát triển bền vững hệ thống logistics ở nước ta trong hội nhập và phát triển... Nhiều trường đại học cũng đã nghiên cứu và xuất bản nhiều giáo trình với khung chương trình đào tạo như: Quản trị hậu cần; Quản trị logistics kinh doanh; Logistics và vận tải quốc tế;... Tuy nhiên, so với nhu cầu nghiên cứu, đào tạo logistics, các giáo trình, tài liệu tham khảo vẫn còn hạn chế; học viên phải tham khảo thêm nhiều tài liệu nước ngoài từ các nguồn khác nhau nhưng thường dưới dạng sách chuyên khảo hay từ một số kết quả nghiên cứu đề tài công bố riêng lẽ về logistics. Khó khăn về tài liệu, giáo trình, ngôn ngữ, thiếu đi các học phần “cốt lõi“ của ngành đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thiện và bổ sung các chính sách hiện hành về logistics.
Hai là, chương trình đào tạo nguồn nhân lực logistics của các cơ sở đào tạo bậc đại học/sau đại học thường xây dựng chủ quan theo trường, thiếu tính định hướng nghề nghiệp rõ ràng, phạm vi quá rộng, cứng nhắc áp dụng kinh nghiệm nước ngoài, thiếu sự chuyên sâu vào các kỹ năng, nghiệp vụ kỹ thuật chuyên ngành logistics, hầu hết các trường đang thiếu phòng mô phỏng đào tạo logistics. Nguyên nhân là do mã ngành đào tạo logistics (từ năm 2017) vẫn còn ghép cơ học vào mã ngành Quản lý công nghiệp. Điều này làm cho chất lượng đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu sử dụng lao động logistics của các doanh nghiệp và các cơ quan, dẫn tới thực tế, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển dụng đều phải đào tạo lại, tốn nhiều thời gian và chi phí. Ngoài ra, với một lĩnh vực đặc thù mang tính liên ngành và kinh tế - kỹ thuật rất cần tới kiến thức nền tảng, cơ sở ngành, môi trường thực tiễn, nhưng các chương trình đào tạo logistics hầu như vẫn chưa được nhiều trường chú trọng mà lại thường bị “quản trị hóa” chương trình, dựa vào khả năng “tự có” của cơ sở đào tạo là chủ yếu. Vì vậy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng vào làm việc và phát huy trong các doanh nghiệp logistics có uy tín và chi nhánh các tập đoàn logistics đa quốc gia vẫn còn thấp, gặp nhiều khó khăn.
Ba là, thiếu đội ngũ giảng viên logistics được đào tạo hệ thống từ bậc đại học logistics, cao học đến nghiên cứu sinh. Logistics là ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân và thường có tốc độ phát triển trên 2 con số nên có nhu cầu nguồn nhân lực lớn và gia tăng cao hàng năm. Vì vậy, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục đại học trong cả nước đã và đang mở ngành đào tạo logistics. Mặc dù số lượng các cơ sở tham gia đào tạo bậc đại học về logistics tăng lên nhanh chóng trong thời gian gần đây, thậm chí có cả Hiệp hội các trường đại học có đào tạo logistics, nhưng đào tạo ngành logistics vẫn còn tình trạng mạnh ai nấy làm. Hiện nay, đội ngũ giảng viên logistics các cấp ở các trường thường chủ yếu từ các chuyên ngành khác chuyển sang; các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu chuyên sâu về logistics vẫn còn rất ít. Đây là nguyên nhân làm cho lực lượng nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành logistics thiếu và yếu ở nhiều cơ sở đào tạo.
Bốn là, thiếu bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp và kiến thức kỹ năng cho đội ngũ nhân sự logistics, đào tạo nghề logistics.
Theo Khoản 3 Điều 3 của Luật việc làm số 38/2013/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 16/11/2013, tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia được định nghĩa là những “quy định về kiến thức chuyên môn, năng lực thực hành và khả năng ứng dụng kiến thức, năng lực đó vào công việc mà người lao động cần phải có để thực hiện công việc theo từng bậc trình độ kỹ năng của từng nghề”. Tuy nhiên, đến nay ngành logistics vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp, bộ chứng chỉ nghề cho các hệ đào tạo, nhất là đào tạo bậc cử nhân và đào tạo nghề logistics. Hiện nay rất ít các trường đại học mở ngành Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng có trang bị phòng mô phỏng đào tạo logistics được đầu tư bài bản như Trường Đại học Thủy lợi và Trường Đại học Thủ Đô.
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS VIỆT NAM
Để đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics, nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển cao của ngành logistics Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Tiếp tục hoàn thiện và bổ sung cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực logistics trong bối cảnh mới
Hiện nay cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực logistics của Nhà nước, ngành, địa phương và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa kịp thời, tương xứng với vai trò và sứ mệnh của ngành logistics trong nền kinh tế. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các văn bản hiện hành về logistics liên quan đến đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, từ việc công nhận chuyên ngành, mã ngành đào tạo logistics, khung chương trình đào tạo, xác định lại các học phần“ cốt lõi” trong đào tạo logistics và cả các hoạt động kinh tế logistics trong Quyết định ban hành hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 2018. Việc nghiên cứu bổ sung các quy định về chức danh nhân sự logistics, tiêu chuẩn nghề, chứng chỉ nghề và các yêu cầu kiến thức kỹ năng đối với nhân sự logistics… và các chính sách có tính đặc thù logistics để làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phát triển nguồn nhân lực logistics trong bối cảnh mới là rất cần thiết.
Xây dựng và phát triển hệ thống kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về logistics
Trên thực tế, số lượng và nội dung công việc trong ngành logistics rất đa dạng và liên quan mật thiết đến nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật khác nhau. Do đó, cần có nhận thức đầy đủ về yêu cầu, đặc điểm nguồn nhân lực logistics trong hệ thống các ngành kinh tế. Và để đảm bảo nguồn nhân lực đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tế của thị trường và của doanh nghiệp logistics, các cơ sở đào tạo cần phải nắm rõ định hướng nghề nghiệp, đặc điểm, yêu cầu nhân sự ngành logistics, từ đó xây dựng khung chương trình đào tạo phù hợp.
Xây dựng các chương trình, giáo trình đào tạo logistics hệ thống, bài bản, hiện đại, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Hiện nay các chương trình và giáo trình có hệ thống, bài bản, hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn phát triển logistics Việt Nam còn hạn chế. Việc tham khảo sách, tài liệu nước ngoài là cần thiết, nhưng còn vướng rào cản do thiếu nguồn tài liệu chuyên ngành logistics có chất lượng và hệ thống, cả về ngôn ngữ cho người học… gây khó khăn trong tiếp cận kiến thức mới và hữu ích. Việc áp dụng có chọn lọc, hiệu quả các chương trình đào tạo, cách thức quản lý tiên tiến theo mô hình của các nước phát triển là rất cần thiết nhưng cần có sự cải tiến sao cho phù hợp với môi trường trong nước, không giáo điều, cứng nhắc mà cần phát huy tinh thần “đổi mới, sáng tạo”, phù hợp với văn hóa, môi trường đào tạo, các giá trị cốt lõi và thực tiễn phát triển của ngành logistics Việt Nam.
Tăng cường sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo trong nước với tổ chức đào tạo nước ngoài về logistics
Liên kết đào tạo có chọn lọc với các cơ sở đào tạo nước ngoài là giải pháp đang được nhiều trường áp dụng. Hình thức liên kết đào tạo này không chỉ dành cho hệ giáo dục đại học, mà còn dành cho hệ giáo dục sau đại học. Ngoài ra, cần tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm cho đội ngũ nhà giáo, nhất là tại những nước có hệ thống logistics phát triển, qua đó bồi dưỡng và cập nhật kiến thức, từng bước hình thành đội ngũ các nhà giáo, các nhà khoa học logistics đầu ngành ở Việt Nam. Việc tăng cường liên kết đào tạo, một mặt sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, mặt khác sẽ giúp cho các cơ sở đào tạo của Việt Nam tiếp cận được với các chương trình đào tạo tiên tiến, hiện đại nhưng phải phù hợp với nền giáo dục Việt Nam, theo đúng định hướng nghề nghiệp, để từ đó chọn lọc, học hỏi điều chỉnh, hoàn thiện các chương trình đào tạo hiện có.
Tăng cường liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp logistics với các cơ sở đào tạo
Hiện nay, các doanh nhiệp logistics Việt Nam hầu hết có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, lại ít có sự liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Do vậy, đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics với các cơ sở giáo dục và đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics có chất lượng, đáp ứng đúng kỳ vọng của doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo cũng cần tăng cường phối hợp với các doanh nghiệp logistics, các cơ sở thực nghiệm, mô phỏng, mời các chuyên gia giỏi từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy các nội dung học phần trong chương trình đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật - nghiệp vụ, phối hợp nghiên cứu các đề tài logistics, tạo điều kiện cho sinh viên tham quan, tìm hiểu, học hỏi môi trường làm việc thực. Việc liên kết đào tạo giữa doanh nghiệp với nhà trường sẽ giúp hiện thực hóa định hướng nghề nghiệp và định hướng xây dựng chương trình đào tạo nghiên cứu, ứng dụng phù hợp với yêu cầu của ngành và doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực logistics.
Ứng dụng hiệu quả các thành tựu mới về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với những bứt phá trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), tích hợp AI với mạng lưới internet vạn vật (IoT) và các công nghệ hiện đại đang dần làm thay đổi toàn bộ viễn cảnh của hệ thống logistics và chuỗi cung ứng trên toàn thế giới, đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với đào tạo nguồn nhân lực logistics mà các trường cần phải tính đến. Sự tham gia nhanh và sâu của công nghệ vào chuỗi hoạt động của ngành logistics đã tác động giảm quy mô lao động của các doanh nghiệp… Do đó, trong bối cảnh gia tăng các nhà máy thông minh, năng lực và kỹ năng sẽ trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất xã hội, dẫn tới tăng nhanh nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi vậy, nhân lực trong ngành logistics cũng cần phải có những kiến thức chuyên sâu về khoa học công nghệ logistics, các kỹ năng nghiệp vụ, biết vận dụng hiệu quả AI trong các công việc để làm chủ các phương tiện và vận hành, khai thác có hiệu quả nhất.
(*)Những kết quả nghiên cứu bước đầu từ để tài: "Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp phát triển dịch vụ logistics nhằm góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam" mã số: KX.01.16/21-30.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Đặng Đình Đào (2021). Những vấn đề đặt ra về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 1/2021.
3. Đặng Đình Đào và cộng sự (2019). Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực logistics ở Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội.
4. Đặng Đình Đào, Đặng Thế Hùng (2023). Nâng cao vai trò của ngành logistics Việt Nam trong bối cảnh mới (Phần 1, 2), Tạp chí Việt Nam - Logistics, số 189,190.
5. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế logistics (2018). Hội nhập kinh tế quốc tế: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics tại Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội.
6. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định 531/QĐ-TTg ngày 1/4/2021 phê duyệt Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
7. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 221/QĐ-TTg, ngày 22/2/2021 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
Ngày nhận bài: 14/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/7/2025; Ngày duyệt đăng: 5/8/2025 |