Xu hướng tích hợp các giá trị công trong phát triển năng lực quản trị số - Một số gợi ý chính sách cho tiến trình chuyển đổi số tại Việt Nam

Mặc dù năng lực quản trị số giữ vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, nhưng để quá trình đạt kết quả như kỳ vọng, thì cần gắn kết chặt chẽ giữa năng lực quản trị số với các giá trị công để tạo nên một chiến lược thống nhất, hướng tới mô hình quản trị hiện đại.

Nguyễn Thị Thu

Học viện Chính sách và Phát triển

Tóm tắt

Quá trình chuyển đổi số hướng tới kỷ nguyên số đã và đang tạo ra cả cơ hội và thách thức mới trong quản trị. Thông qua việc khảo sát, nghiên cứu đánh giá sự tích hợp giá trị công với năng lực quản trị số trong quá trình cải cách và chuyển đổi số tại Singapore, đồng thời so sánh với thực tế tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu gợi ý rằng, Chính phủ Việt Nam cần củng cố các giá trị công và quá trình chuyển đổi số cần gắn kết chặt chẽ với các giá trị này, cũng như tạo ra các cơ chế phù hợp, nhất quán, lấy giá trị con người làm trung tâm.

Từ khoá: Chuyển đổi số, giá trị công, năng lực quản trị số, chính phủ số

Summary

The digital transformation process toward the digital era has brought about both new opportunities and challenges in governance. This study investigates the integration of public values with digital governance capacity during the reform and digital transformation process in Singapore, and provides a comparative analysis with the current situation in Vietnam. Based on the findings, the study suggests that the Vietnamese government should strengthen public values and ensure that the digital transformation process is closely aligned with these values. Furthermore, it emphasizes the need to establish appropriate and consistent mechanisms that place human-centered values at the core.

Keywords: Digital transformation, public values, digital governance capacity, digital government

ĐẶT VẤN ĐỀ

Năng lực quản trị số là một khái niệm mới phản ánh khả năng của Chính phủ cũng như các chủ thể bên ngoài Chính phủ tiếp cận và sử dụng các nguồn lực số để đạt được các mục tiêu phát triển. Đặc biệt, Van der Waldt, G. (2016) nhấn mạnh rằng, các nhà quản lý và cán bộ công chức (CBCC) phải có hiểu biết và năng lực phù hợp để có thể sử dụng các ứng dụng, các phương thức quản trị phù hợp với cơ sở hạ tầng, khuôn khổ pháp lý và bối cảnh của mình.

Mặc dù năng lực quản trị số giữ vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, nhưng để quá trình đạt kết quả như kỳ vọng, thì cần gắn kết chặt chẽ giữa năng lực quản trị số với các giá trị công để tạo nên một chiến lược thống nhất, hướng tới mô hình quản trị hiện đại. Tuy nhiên, theo quan sát của tác giả, phần lớn các nghiên cứu hiện nay có cách tiếp cận tách biệt giữa giá trị công và năng lực quản trị số. Vì thế, việc tìm kiếm những bằng chứng thực tiễn cho thấy sự cần thiết phải tích hợp và có sự gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công cũng như lợi ích từ quá trình này trong quá trình chuyển đổi số của Việt Nam là cần thiết.

TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tổng quan về giá trị công và xu hướng gắn kết năng lực quản trị số với các giá trị công

Giá trị công (Public Value) được tác giả Moore Mark lần đầu được nêu ra năm 1997 trong tác phẩm “Sáng tạo giá trị công: quản lý chiến lược trong chính phủ”. Theo ông, giá trị công đại diện cho những lợi ích, kết quả mong muốn mà xã hội nhận được từ các hoạt động của chính phủ, bao gồm sự công bằng, hiệu quả, minh bạch, tin cậy, sự tham gia, và chất lượng cuộc sống. Trải qua thời gian, lý thuyết giá trị công được coi là một phương thức tiếp cận có thể thay thế cho quản lý công mới, đưa lại góc nhìn toàn diện hơn để giải thích cho những chuyển đổi phức tạp trong kỷ nguyên số.

Về mặt lý luận, xu hướng gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công là một đòi hỏi tất yếu. Theo Moore, giá trị công là sản phẩm được tạo ra bởi các nhà quản lý trong khu vực công- những người được lựa chọn để thực hiện những nguyện vọng của cử tri và của xã hội. Tuy nhiên, quá trình hiện thực hóa các giá trị công của các nhà quản lý phụ thuộc khá nhiều vào năng lực quản trị số của các chủ thể trong xã hội. Chẳng hạn như, khi Chính phủ có năng lực quản trị số tốt, việc thiết kế các công cụ, nền tảng cho quá trình nghiên cứu, lấy ý kiến của người dân sẽ có hiệu quả hơn. Tương tự, người dân và doanh nghiệp có hiểu biết, tham gia tích cực vào quá trình thảo luận, tăng cường tương tác – phản hồi, thì quá trình ra quyết định quản lý sẽ khoa học, bao trùm hơn, giá trị dân chủ nhờ đó cũng được củng cố. Ngược lại, nếu thiếu sự gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công, quá trình ứng dụng khoa học công nghệ và đưa ra các ý tưởng, chinh sách hay các quyết định của các nhà quản lý ở khu vực công và khu vực tư có thể hướng tới các mục đích khác nhau. Điều này có thể làm cho các quy trình thủ tục hay quá trình chuyển đổi số thiếu tính thống nhất, xuất hiện nhiều nguy cơ làm lung lay các giá trị như tính hiệu quả, dân chủ, công bằng.

Về mặt thực tiễn, nghiên cứu của tác giả Van der Waldt, G. (2016) chỉ rõ, sự thay đổi trong mô thức liên kết của xã hội đã làm cho các phương pháp quản trị có sự chuyển đổi sâu sắc. Trên cơ sở phân tích sáng kiến ​​của Chính phủ Nam Phi trong việc thúc đẩy năng lực quản trị số của công chức và dựa trên nhiều thông lệ tốt ở 5 quốc gia phát triển để đưa ra một khuôn khổ có sự gắn kết giữa năng lực quản trị số với các giá trị công. Kinh nghiệm từ các mô hình thực tiễn cho thấy, năng lực quản trị số được phản ánh trong kiến thức và kỹ năng liên quan đến quản trị để giải quyết các vấn đề, hay năng lực cần thiết để thực hiện các dự án công nghệ thông tin (ICT). Đặc biệt, trong bối cảnh ngày nay, khi mối quan hệ lợi ích có tính mạng lưới, đan xen phức tạp giữa các chủ thể trong và ngoài Nhà nước, giá trị công có vai trò làm cho quá trình tương tác, sản xuất, cung ứng dịch vụ công trở nên thống nhất, hướng tới mục tiêu phát triển chung (Wang, 2024).

Các nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, sự gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công sẽ góp phần hình thành một khuôn khổ pháp lý thống nhất, làm cho quá trình thực hiện các chính sách chuyển đổi số trở lên hiệu quả hơn vì sự gắn kết này sẽ: (1) Hỗ trợ cho các thể chế và cơ chế chính sách chuyển đổi số; (2) Tăng cường sự thống nhất trong khung pháp lý và chính sách; (3) Tạo nên các mô hình hành vi có tính chuẩn mực, nâng cao hiệu suất các dịch vụ công và tăng cường chức năng của Chính phủ.

Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ xu hướng tích hợp giá trị công với năng lực quản trị số trong quá trình cải cách và chuyển đổi số của Việt Nam, tác giả lựa chọn Singapore – quốc gia có sự tương đồng nhất định về xuất phát điểm khi cải cách về thể chế quản lý để so sánh, chỉ ra vấn đề của Việt Nam, từ đó đưa các giải pháp trong thời gian tới.

Bài nghiên cứu cũng sử dụng các phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh để phân tích và đưa ra các phát hiện. Trọng tâm của nội dung phân tích là xem xét sự gắn kết giữa năng lực quản trị số với các giá trị công trên cơ sở phân tích phạm vi và khuôn khổ pháp lý; các nội dung, ý tưởng chính sách. Hai phương pháp chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp và phương pháp phân tích các văn bản pháp lý - chính sách. Các nguồn thông tin dữ liệu được sử dụng chính trong phân tích gồm: các báo cáo chính trị, các văn bản pháp lý – chính sách, các kết quả thực thi chính sách và các bài báo, báo cáo nghiên cứu của các tổ chức quốc tế.

KẾT QUẢ NGHÊN CỨU

Sự gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công trong quá trình cải cách và chuyển đổi số tại Singapore

Với quy mô dân số và bộ máy hành chính nhỏ gọn, Singapore đã thực hiện chiến lược chuyển đổi số nhanh hơn Việt Nam, trở thành quốc gia dẫn đầu trong khu vực với hệ sinh thái số hoàn thiện. Kết quả này cũng cho thấy Singpore đã xác định một hệ thống giá trị công như là tiêu chuẩn để hướng dẫn các quyết định sách chuyển đổi số, cũng như tích hợp các giá trị này trong quá trình phát triểnnăng lực quản trị số. Kết quả thực tiễn từ các chính sách trong quá trình cải cách và chuyển đổi số của Singapore cho thấy, quốc gia này đã định rõ các giá trị công nền tảng góp phần tạo nên khung pháp lý bền vững cho quá trình cải cách và chuyển đổi số (Bảng 1).

Bảng 1: Sự gắn kết của các giá trị công và năng lực quản trị số trong quá trình chuyển đổi tại Singapore

Xu hướng tích hợp các giá trị công trong phát triển năng lực quản trị số -  Một số gợi ý chính sách cho tiến trình chuyển đổi số tại Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Một số bằng chứng cụ thể được tìm thấy như sau:

- Chính phủ Singapore đã xác định rõ tầm nhìn trong dài hạn, với các giá trị công cụ thể, làm nền tảng cho quá trình hoạch định chính sách và điều hành khu vực công. Chẳng hạn như các giá trị về sự phù hợp, thận trọng và chất lượng, hiệu quả hay sáng tạo đều trở thành tiêu chí cho mọi hoạt động trong quy trình hoạch định và thực thi chính sách (Hanisch và cộng sự, 2023). Xác định nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất, các chính sách của Singapore đã thiết lập văn hoá trọng dụng người tài và định hướng các chính sách tới các giá trị cốt lõi như liêm khiết, tự lực, tự cường. Nhờ đó, năng lực thể chế phòng chống tham nhũng ở Singapore được thúc đẩy; Singapore đã đưa ra nhiều chính sách để thu hút, chọn người tài, cấp học bổng cũng như trả lương để cho cán bộ, cong chức không muốn và không thể tham nhũng.

- Năng lực quản trị số ở Singapore được xác định rõ ràng và có sự gắn kết sâu sắc với các giá trị công thông qua những lựa chọn thúc đẩy giá trị con người. Cụ thể, bên cạnh các giá trị như liêm khiết, tự cường, quá trình chuyển đổi số, Singapore đã xác định lấy người dùng làm trung tâm, đồng thời tiếp tục bổ sung các giá trị như sự tin cậy, linh hoạt và thận trọng. Nhờ các chính sách giá trị nhất quán, gắn với giá trị công mà Singapore đã có được đội ngũ cán bộ, công chức giỏi, có nhiều sáng kiến và nhanh chóng xây dựng được hạ tầng công nghệ cũng như khung pháp lý cho quá trình chuyển đổi số.

Sự gắn kết giữa năng lực quản trị số và các giá trị công trong quá trình cải cách và chuyển đổi số tại Việt Nam, có so sánh với Singapore

Phân tích các văn bản chính sách về chuyển đổi số ở Việt Nam, có thể thấy, Việt Nam đã xác định khung năng lực số, một số đặc trưng gắn với quản trị số và luật hoá một số khía cạnh của công nghệ số (Bảng 2).

Bảng 2: Sự gắn kết của các giá trị công và năng lực quản trị số trong quá trình chuyển đổi tại Việt Nam

Xu hướng tích hợp các giá trị công trong phát triển năng lực quản trị số -  Một số gợi ý chính sách cho tiến trình chuyển đổi số tại Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

So sánh với Singapore có thể thấy, các văn bản chính sách về chuyển đổi số ở Việt Nam thể hiện được sự gắn kết giữa năng lực quản trị số với các giá trị con người thông qua các giá trị như tự lực tự cường, liêm khiết và lấy người dân là trung tâm. Tuy nhiên, so với Singapore, có thể thấy quá trình thể chế hóa và thực thi chính sách trong giai đoạn chuyển đổi ở Việt Nam chưa có sự nhất quát và thúc đẩy các giá trị này. Chẳng hạn như giá trị liêm khiết đã được đề cập tới trong Báo cáo chính trị đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1986), nhưng sau đó, đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, giá trị này mới được nhắc lại trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, cũng như được ban hành chính thức trong Quyết định số 144 QĐ-TƯ quy về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Một số giá trị khác như hiệu suất, hiệu quả cũng thiếu các thước đo được chuẩn mực hóa để phản ánh rõ các kết quả đẩu ra. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các chính sách cải cách và chuyển đổi số tại Việt Nam, có thể thấy, Chính phủ Việt Nam cũng xác định rõ các giá trị công, trong đó có các giá trị tương đồng với Singapore như công bằng, hiệu quả, dân chủ, đổi mới. Tuy nhiên, khác với chiến lược tập trung vào con người của Singapore, Chính phủ Việt Nam đề cao giá trị đổi mới, tập trung dân chủ và hoàn thiện thể chế để tăng giá trị pháp quyền trong quá trình chuyển đổi.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Kết luận

Nghiên cứu cho thấy, xu hướng quản trị dựa trên giá trị công và sự gắn kết năng lực quản trị số với các giá trị công trong quá trình chuyển đổi số đã và đang diễn ra ở cả Singapore và Việt Nam. Xu hướng này là một đòi hỏi khách quan, nhằm xây dựng một bộ máy quản trị có năng lực và phương thức quản trị hiện đại, phù hợp với quá trình chuyển đổi số.

Đề xuất giải pháp

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đối sánh giữa Việt Nam và Singapore, tác giả cho rằng, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, bên cạnh việc phát triển năng lực quản trị số, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần phải thúc đẩy xu hướng tích hợp các giá trị vào quá trình này, cũng như theo đuổi một các nhất quán quan điểm lấy con người làm trọng tâm của mọi chính sách và quá trình chuyển đổi. Bên cạnh đó, cần lưu ý thực hiện các giải pháp sau nhằm tăng cường gắn kết giữa năng lực quản trị số và giá trị công trong quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam:

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần bổ sung và hoàn thiện các giá trị công cốt để làm nền tảng cho quá trình lồng ghép, phát triển, hình thành năng lực quản trị số, phục vụ quá trình chuyển đổi. Ngược lại năng lực quản trị số cũng phải được xây dựng và phát triển dựa trên việc thấu hiểu và cam kết với các giá trị công. Chính phủ Việt Nam cần thúc đẩy mạnh mẽ các giá trị như coi trọng người tài, đổi mới, sáng tạo, học hỏi, thích ứng nhanh và tăng cường cơ chế thử nghiệm có kiểm soát cả về chính sách và công nghệ, đưa những giá trị này trở thành đặc trưng của văn hoá công vụ.

Thứ hai, cần thiết phải xác định các ưu tiên chiến lược, tập trung vào hoàn thiện hệ thống khung pháp lý cũng như phát triển năng lực quản trị số gắn với các giá trị công. Khi có năng lực quản trị số, các cán bộ, công chức trong hệ thống Chính phủ mới có khả năng đánh giá đúng bối cảnh, lựa chọn các ý tưởng để thiết kế và thực thi chính sách chuyển đổi số phù hợp. Năng lực quản trị số cũng cần xác định phù hợp với bối cảnh, đồng thời tích hợp vào xu hướng chủ đạo để hoàn thiện hệ sinh thái số.

Thứ ba, quá trình chuyển đổi số tạo tiền đề cho đổi mới hoạt động quản lý, điểu hành của Chính phủ nhưng cũng phải đồng thời tạo ra sự chuyển biến sâu rộng trong toàn xã hội, thúc đẩy các giá trị cốt lõi, khuyến khích sự tham gia chủ động của các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp để đồng sáng tạo ra một Chính phủ số, một nền kinh tế số và xã hội số văn minh, hiện đại./.

Tài liệu tham khảo

1. Benington, J. (2011). From private choice to public value, Public value: Theory and practice, 121, 31-49.

2. Hanisch, M., Goldsby, C. M., Fabian, N. E., & Oehmichen, J. (2023). Digital governance: A conceptual framework and research agenda, Journal of Business Research, 162, 113777.

3. Moore, M. H. (1997). Creating public value: Strategic management in government. Harvard university press.

4. Neo, B. S., & Chen, G. (2007). Dynamic governance: Embedding culture, capabilities and change in Singapore (English version), World Scientific.

5. Van der Waldt, G. (2016). Towards an E-Governance competency framework for public service managers : the South African experiment, African Journal of Public Affairs, 9(4), 114-129.

6. Wang, H. (2024). How can digital government governance creates public value in the new era, In Proceedings of the 2023 2nd International Conference on Public Service, Economic Management and Sustainable Development (PESD 2023), 273, Springer Nature.

7. World Bank (2020). Report GovTech Maturity Index.

Ngày nhận bài: 15/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 25/6/2025; Ngày duyệt đăng: 30/6/2025