Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước tại thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp

Doanh nghiệp ngoài nhà nước không chỉ là lực lượng sản xuất lớn, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

ThS. Lê Minh Tường

Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ thành phố Đà Nẵng

Email: anhtuongdn@gmail.com

Tóm tắt

Trong định hướng phát triển mới, việc thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trở thành nhiệm vụ chiến lược và tiên phong đối với TP. Đà Nẵng. Doanh nghiệp ngoài nhà nước không chỉ là lực lượng sản xuất lớn, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bài viết tập trung đánh giá thực trạng, vai trò và những thách thức của doanh nghiệp ngoài nhà nước tại TP. Đà Nẵng giai đoạn 2015–2023, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp ngoài nhà nước (lực lượng chủ đạo của khu vực kinh tế tư nhân) trong bối cảnh hội nhập và hợp tác quốc tế.

Từ khóa: Doanh nghiệp ngoài nhà nước, TP. Đà Nẵng, Nghị quyết 68-NQ/TW

Summary

Under the new development orientation, the implementation of Resolution No. 68-NQ/TW of the Politburo on private economic development has become a strategic and pioneering task for Da Nang City. Non-state enterprises are not only a major productive force but also a hub for innovation and economic restructuring. This paper focuses on assessing the current status, roles, and challenges of non-state enterprises in Da Nang during the 2015–2023 period, while proposing solutions to promote the sustainable development of non-state enterprises (the key driver of the private economic sector) in the context of international integration and cooperation.

Keywords: Non-state enterprises, Da Nang City, Resolution 68-NQ/TW

GIỚI THIỆU

Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng được xác định là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt mục tiêu cụ thể: đến năm 2030, khu vực này phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp khoảng 55–58% GDP, tạo ra khoảng 84%-85% việc làm; và đến năm 2045, trở thành lực lượng có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế, đóng góp khoảng trên 60% GDP.

Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu thực tiễn phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước (DN NNN) tại các địa phương, đặc biệt là tại TP. Đà Nẵng, trung tâm kinh tế trọng điểm miền Trung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

QUAN ĐIỂM VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN

Từ chỗ loại trừ sở hữu tư nhân, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước chuyển mạnh mẽ về vai trò của kinh tế tư nhân, bắt đầu từ việc thừa nhận kinh tế nhiều thành phần tại Đại hội VI (1986). Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền tự do kinh doanh và quyền sở hữu hợp pháp, tạo nền tảng pháp lý quan trọng. Nghị quyết số 10-NQ/TW (năm 2017) lần đầu xác định kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng”, tiếp tục được nâng tầm trong Nghị quyết số 68-NQ/TW (năm 2025), coi đây là “một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân”. Các văn kiện này không chỉ xác định rõ vai trò trung tâm của doanh nhân, mà còn đề ra giải pháp thể chế hóa môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Song song, hệ thống pháp luật, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1990 đến các phiên bản tiếp theo (năm 1999, 2005, 2014) và gần đây nhất là Luật Doanh nghiệp năm 2020, từng bước mở rộng quyền tự chủ, bảo đảm quyền tài sản và hoạt động hợp pháp cho doanh nghiệp. Sự đồng bộ giữa chủ trương chính trị và khung pháp lý đang tạo nền tảng cho kinh tế tư nhân bứt phá và đóng vai trò chủ lực trong tái cơ cấu, hiện đại hóa nền kinh tế và và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Hiện chưa có định nghĩa thống nhất và đầy đủ về “kinh tế tư nhân” trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, xét theo tiêu chí sở hữu tư liệu sản xuất, kinh tế tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế sở hữu tư nhân về vốn, tài sản và quyền kiểm soát, không thuộc sở hữu nhà nước hoặc vốn FDI chi phối. Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW), đánh giá khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động. Như vậy, nội hàm kinh tế tư nhân trong bối cảnh Việt Nam có thể xác định gồm: (1) doanh nghiệp ngoài nhà nước; (2) hộ kinh doanh cá thể. Theo phân loại của Cục Thống kê, khu vực kinh tế ngoài nhà nước gồm: doanh nghiệp ngoài nhà nước, hợp tác xã và cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể. Đây là lực lượng sản xuất chủ yếu, không thuộc thành phần nhà nước hay doanh nghiệp FDI.

THỰC TRẠNG VỀ DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC TẠI TP. ĐÀ NẴNG

Theo Niên giám Thống kê, tính đến thời điểm 31/12/2023, TP. Đà Nẵng có tổng cộng 21.461 doanh nghiệp đang hoạt động; doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tới 97,4% với 20.909 đơn vị trong tổng số 21.461 doanh nghiệp, còn lại 48 doanh nghiệp nhà nước và 504 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Cấu trúc vốn của các doanh nghiệp ngoài nhà nước

Thực tế cho thấy sự chi phối của nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, với tổng cộng 14.370 doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng, chiếm 66,9% tổng số doanh nghiệp toàn thành phố. Trong đó, nhóm doanh nghiệp có vốn từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ lớn nhất với 9.041 đơn vị (42,1%), tiếp theo là các nhóm dưới 1 tỷ đồng (2.578 doanh nghiệp dưới 0,5 tỷ đồng và 2.751 doanh nghiệp từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng). Tỷ lệ này cho thấy, đa phần các doanh nghiệp ngoài nhà nước tại TP. Đà Nẵng vẫn duy trì ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ – đặc điểm khiến khu vực này hạn chế trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Trong khi đó, chỉ có 688 doanh nghiệp có vốn từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng và 138 doanh nghiệp từ 200 đến dưới 500 tỷ đồng, tức chỉ chiếm chưa đến 4% toàn bộ khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nhà nước, phản ánh sự khan hiếm của lớp doanh nghiệp trung bình – lớn có khả năng dẫn dắt thị trường và đổi mới ngành nghề.

Phân theo ngành kinh tế

Doanh nghiệp tại TP. Đà Nẵng tập trung đông đảo trong các lĩnh vực thương mại – dịch vụ truyền thống như: bán buôn, bán lẻ và sửa chữa phương tiện (6.971 doanh nghiệp, chiếm 32,48%) và xây dựng (3.878 doanh nghiệp, chiếm18,1%). Trong khi đó, các ngành được đánh giá là có tiềm năng tạo giá trị gia tăng cao và có hàm lượng tri thức như công nghiệp chế biến – chế tạo (2.046 doanh nghiệp, chiếm 9,5%) hay hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (2.011 doanh nghiệp, chiếm 9,4%), Thông tin và truyền thông (3,22%) vẫn chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong toàn bộ hệ thống. Cơ cấu vốn và cơ cấu ngành như vậy cho thấy chất lượng doanh nghiệp Thành phố hiện còn hạn chế cả về quy mô lẫn chiều sâu hoạt động kinh tế. Đồng thời, sự tập trung vào các ngành dịch vụ phổ thông cũng đặt ra những thách thức về nâng cao năng suất lao động và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại.

Về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Giai đoạn 2015–2023, doanh nghiệp ngoài nhà nước tại TP. Đà Nẵng ghi nhận doanh thu tăng ổn định, từ 138.530 tỷ đồng lên 274.268 tỷ đồng (năm 2022), sau đó giảm nhẹ còn 262.902 tỷ đồng (năm 2023) (Hình 1).

Tuy nhiên, lợi nhuận và tỷ suất sinh lời biến động mạnh. Lợi nhuận trước thuế đạt đỉnh 8.055 tỷ đồng (năm 2019), giảm sâu về âm 3.159 tỷ đồng (năm 2020) do ảnh hưởng của Covid-19, dù doanh thu chỉ giảm nhẹ (Hình 2). Điều này phản ánh khả năng chống chịu tài chính còn yếu. Giai đoạn hậu đại dịch, lợi nhuận phục hồi lên 5.163 tỷ đồng (năm 2023), nhưng tỷ suất lợi nhuận chỉ đạt 1,96%, thấp hơn mức 3,32% năm 2019 và thấp hơn doanh nghiệp FDI (2,53%). Hiệu quả sinh lời còn thiếu ổn định và chưa tương xứng với quy mô doanh thu.

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước tại thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp
Hình 1: Doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước tại thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp
Hình 2: Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp đang hoạt động phân loại theo loại hình doanh nghiệp

Nguồn: Cục Thống kê TP. Đà Nẵng (Niên giám Thống kê 2019, 2021, 2023)

Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế (GRDP) và tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN)

Khu vực kinh tế ngoài nhà nước giai đoạn 2015–2023 tại TP. Đà Nẵng đóng góp ngày càng lớn vào GRDP, với tốc độ tăng trưởng bình quân 6,6%/năm. Từ mức 40.465 tỷ đồng (54,8% GRDP) năm 2015, giá trị tăng lên 79.875 tỷ đồng (59,5%) vào năm 2023. Số liệu sơ bộ năm 2024 ghi nhận GRDP khu vực này đạt 90.506 tỷ đồng, tiếp tục chiếm gần 60% tổng GRDP – khẳng định vai trò trụ cột trong cấu trúc kinh tế địa phương. Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước năm 2021 đóng góp 46.765 tỷ đồng, chiếm 72,9% giá trị của toàn khu vực kinh tế ngoài nhà nước, cho thấy chiếm ưu thế tuyệt đối trong đóng góp tăng trưởng so với hộ cá thể và hợp tác xã.

Giai đoạn 2015–2023, khu vực kinh tế ngoài nhà nước duy trì vai trò chủ lực trong cơ cấu thu NSNN tại TP. Đà Nẵng, với tỷ lệ đóng góp dao động từ 13,5% đến 22,6% (Hình 3). Năm 2019 ghi nhận mức cao nhất (4.782 tỷ đồng, chiếm 22,64%), sau đó giảm do tác động của Covid-19 và phục hồi lên 21,18% năm 2023 (3.576 tỷ đồng). Trong khi doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng góp 7,09% và FDI là 17,49%, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tiếp tục giữ vị trí trụ cột tài khóa. Nếu căn cứ theo cơ cấu giá trị gia tăng GRDP năm 2021, doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 72,9% giá trị gia tăng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhóm này ước tính đóng góp khoảng 2.605 tỷ đồng vào ngân sách năm 2023, vượt FDI cả về tỷ trọng lẫn giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên, đóng góp vẫn thấp hơn mức đỉnh trước đại dịch, phản ánh khó khăn kéo dài và cho thấy nhu cầu ổn định môi trường kinh doanh nhằm phục hồi hiệu quả tài khóa.

Một nghịch lý nổi bật là mức đóng góp NSNN chưa tương xứng với quy mô hoạt động. Năm 2023, dù doanh thu thuần của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt trên 262.902 tỷ đồng, nhưng tỷ lệ đóng góp NSNN chỉ ở mức 10,5% (Hình 4), phản ánh hiệu suất tài khóa còn thấp. Ba nguyên nhân chính có thể lý giải hiện tượng này: (1) Cơ cấu ngành nghề tập trung vào lĩnh vực có suất sinh lợi và thuế suất thấp (dịch vụ, thương mại và xây dựng nhỏ lẻ); (2) Tỷ suất lợi nhuận trước thuế thấp và chỉ đạt 1,96%; (3) Tình trạng thất thu thuế, đặc biệt ở khối doanh nghiệp nhỏ, chưa được khắc phục hiệu quả.

Hình 3: Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành phân theo loại hình kinh tế

Hình 4: Thu NSNN phân theo các khu vực kinh tế

Nguồn: Cục Thống kê TP. Đà Nẵng (Niên giám Thống kê 2019, 2021, 2023), Sở Tài chính

Đóng góp vốn đầu tư vào nền kinh tế

Giai đoạn 2015–2023, khu vực kinh tế ngoài nhà nước giữ vai trò chủ lực trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển của TP. Đà Nẵng (Hình 5). Năm 2023, khu vực này đạt 19.229 tỷ đồng, chiếm 59,86% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vượt trội so với FDI (10,84%) và khu vực nhà nước (2,21%). Trong đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 14.420 tỷ đồng, tương đương 44,89% tổng vốn, song đã giảm so với mức đỉnh 61,48% năm 2017.

Xu hướng giảm tốc từ sau năm 2018 phản ánh tác động của dịch Covid-19, sự lệ thuộc vào ngành truyền thống, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong các dự án chưa được tháo gỡ về thủ tục pháp lý để tiếp tục đầu tư triển khai. Dù vẫn là trụ cột đầu tư, tỷ trọng vốn của doanh nghiệp tư nhân giảm xuống dưới 45% vào năm 2023, cho thấy mức độ nhạy cảm với biến động vĩ mô và môi trường kinh doanh chưa ổn định.

Hình 5: Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn đối với các khu vực kinh tế theo giá hiện hành

Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước tại thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Cục Thống kê TP. Đà Nẵng (Niên giám Thống kê 2019, 2021, 2023), Sở Tài chính

Đóng góp tạo việc làm

Đến cuối năm 2023, doanh nghiệp ngoài nhà nước tại TP. Đà Nẵng sử dụng 238.890 lao động, chiếm 77,3% tổng số 309.190 lao động toàn Thành phố làm việc tại các khu vực kinh tế. Trong khi đó, doanh nghiệp FDI sử dụng 14,6% và doanh nghiệp nhà nước chỉ còn 8.1%, giảm mạnh so với năm 2015. Điều này phản ánh xu hướng thu hẹp khu vực nhà nước và gia tăng vai trò của kinh tế tư nhân trong thị trường lao động. Về ngành nghề, lao động chủ yếu tập trung ở công nghiệp chế biến – chế tạo (25,5%), xây dựng (16,9%) và bán buôn – bán lẻ (16,0%). Các ngành dịch vụ có giá trị cao như: tài chính – ngân hàng, khoa học – công nghệ, Thông tin và truyền thông vẫn chiếm tỷ lệ thấp (dưới 5%), cho thấy sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao.

NHẬN ĐỊNH VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Nhận định

Thứ nhất, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tại TP. Đà Nẵng giữ vai trò chủ lực về quy mô, nhưng vẫn hạn chế về chất: vốn nhỏ, tích lũy thấp và thiếu doanh nghiệp dẫn dắt trong các ngành mũi nhọn.

Thứ hai, vốn đầu tư tập trung vào ngành truyền thống (như: xây dựng, thương mại nhỏ lẻ, dịch vụ lưu trú và ăn uống…), chưa có đột phá trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và sản xuất. Hiệu quả đầu tư chưa được đánh giá toàn diện và tác động dài hạn.

Thứ ba, dù doanh thu lớn và phục hồi nhanh sau Covid-19, hiệu quả kinh doanh chưa ổn định, tỷ suất lợi nhuận thấp và sức chống chịu tài chính còn yếu so với doanh nghiệp FDI.

Thứ tư, cơ cấu lao động hiện còn nghiêng về ngành sử dụng nhiều lao động nhưng năng suất thấp, đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách phát triển nhân lực kỹ thuật và tri thức.

Khuyến nghị

Một là, nâng cao năng suất nội tại phải được đặt làm trọng tâm. Các doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm nhỏ và vừa, cần được hỗ trợ mạnh mẽ trong chuyển đổi số, cải tiến quy trình công nghệ và nâng cao trình độ quản trị tài chính. Nghiên cứu hình thành một trung tâm hỗ trợ tích hợp – mô phỏng theo mô hình “One-Stop SME Centre” tại Singapore sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ số hóa, tư vấn pháp lý, chuẩn hóa kế toán và đào tạo nguồn lực kỹ thuật.

Hai là, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn dài hạn với lãi suất thấp, hỗ trợ tiếp cận đất đai và thiết kế ưu đãi thuế theo hiệu quả, gắn với tiêu chí cụ thể về năng suất, đổi mới và đóng góp ngân sách, tránh ưu đãi đại trà – học theo cơ chế EDB của Singaopore.

Ba là, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tài chính, logistics và R&D là then chốt. Chính quyền cần điều phối liên kết đào tạo thực hành giữa doanh nghiệp – đại học – viện nghiên cứu để tổ chức các chương trình đào tạo thực hành, hỗ trợ học phí và cấp chứng chỉ nghề có giá trị quốc tế.

Bốn là, hỗ trợ tài chính đổi mới công nghệ, đồng thời gắn với nâng cao điều kiện lao động, đặc biệt về an toàn, thu nhập và môi trường làm việc theo hướng tiếp cận của Productivity Solutions Grant (Singapore).

Năm là, cần tăng cường quản trị thuế và minh bạch tài chính. Đồng thời, cải cách thuế nên khuyến khích tuân thủ tự nguyện, nâng cấp mô hình kinh doanh, qua đó gia tăng bền vững năng lực đóng góp ngân sách./.

Tài liệu tham khảo:

1. Cục Thống kê TP. Đà Nẵng (2020-2024). Niên giám Thống kê TP. Đà Nẵng các năm, từ năm 2019 đến 2023, Nxb Thống kê.

2. Sở Tài chính (2020-2024). Số liệu công khai quyết toán ngân sách, truy cập từ https://taichinh.danang.gov.vn/web/guest/c%C3%B4ng-khai-ng%C3%A2n-s%C3%A1ch.

Ngày nhận bài: 05/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/6/2025; Ngày duyệt đăng: 27/6/2025