Phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030

Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để bứt phá và vươn lên trở thành một quốc gia phát triển, có nền công nghiệp hiện đại và mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030.

TS. Hoàng Thị Bích Loan

Viện Kinh tế chính trị học – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Email: duckhoi06@gmail.com

Tóm tắt

Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để bứt phá và vươn lên trở thành một quốc gia phát triển, có nền công nghiệp hiện đại và mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Sau nhiều thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu tăng trưởng ấn tượng, duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô tương đối và thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức như năng suất lao động thấp, phụ thuộc vào gia công lắp ráp, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm còn hạn chế và nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Mục tiêu đến năm 2030 đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Bài viết tập trung phân tích về việc phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030.

Từ khóa: Vai trò, khu vực kinh tế có đầu tư nước ngoài, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Abstract

Vietnam is at a historic juncture, poised for a breakthrough to ascend as a developed nation with a modern industrial base and upper-middle-income status by 2030. Following decades of comprehensive reforms, the country has achieved impressive economic growth, maintained relative macroeconomic stability, and attracted substantial foreign direct investment (FDI). Nevertheless, the economy continues to grapple with persistent challenges, including low labor productivity, a over - reliance on assembly and processing, limited technological content in its products, and the risk of falling into the middle-income trap. Realizing the 2030 objectives necessitates a fundamental shift in Vietnam's growth model from extensive to intensive, driven by innovation, science and technology, and enhanced national competitiveness. This paper focuses on analyzing how to leverage the role of the foreign-invested economic sector as a pivotal driver for Vietnam to achieve its goals of becoming a modern industrial, upper-middle-income country by 2030.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là bước đi đầu tiên trên chặng đường thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Thời điểm được xem là bước ngoặt trong thu hút FDI của Việt Nam được tính từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, bởi vì sau thời điểm này dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng rất nhanh và mạnh, giúp Việt Nam trở thành một trong những nước thu hút FDI lớn nhất trong khu vực. Bên cạnh những kết quả đã mang lại, trên thực tế, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong thu hút và hấp thụ vốn FDI của nền kinh tế Việt Nam. Những hạn chế trong thu hút FDI xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do chính sách thu hút FDI ở Việt Nam vẫn còn bất cập.

Trong bối cảnh mới, lợi thế về chi phí trong thu hút FDI sẽ dần bị mất đi, yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế sang chiều sâu, cùng với sự xuất hiện, phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0… Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút FDI “thế hệ mới”, với tiêu chuẩn chất lượng cao hơn, sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu…

Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu trở thành một quốc gia phát triển với nền công nghiệp hiện đại và mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Trong bối cảnh đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ là một nguồn vốn quan trọng mà còn là động lực thúc đẩy sự chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong những thập kỷ qua, FDI đã đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Các dự án FDI mang lại nguồn vốn đầu tư lớn, tạo ra việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua thuế và phí, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu. Đặc biệt, sự tham gia của các tập đoàn đa quốc gia đã mang đến những công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại và tiêu chuẩn quốc tế, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, dịch vụ của Việt Nam.

Tuy nhiên, để khu vực FDI phát huy tối đa vai trò trong giai đoạn phát triển mới, Việt Nam cần có những chiến lược và giải pháp đột phá, tập trung vào việc thu hút FDI chất lượng cao, tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước, đồng thời giải quyết những thách thức còn tồn tại.

VAI TRÒ CỦA KHU VỰC FDI TRONG MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, khu vực FDI đóng vai trò quan trọng trên một số khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, thúc đẩy việc tiếp cận và chuyển giao công nghệ hiện đại

Các doanh nghiệp FDI thường mang theo những công nghệ sản xuất, quy trình quản lý và bí quyết kỹ thuật hiện đại mà các doanh nghiệp trong nước chưa có điều kiện tiếp cận. Thông qua hợp tác, liên doanh hoặc làm việc trong các doanh nghiệp FDI, lao động Việt Nam có cơ hội học hỏi, tiếp thu và làm chủ những công nghệ này. Sự có mặt của các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới tạo ra hiệu ứng lan tỏa công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước thông qua các hoạt động mua bán đầu vào, cung ứng dịch vụ, hợp tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Điều này giúp nâng cao trình độ công nghệ chung của nền kinh tế.

Bên canh đó, FDI có thể đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mới, có hàm lượng công nghệ cao như điện tử, bán dẫn, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học. Sự đầu tư vào các lĩnh vực này tạo ra động lực tăng trưởng mới và giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Việc chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực như: Dầu khí, điện tử, viễn thông... Cùng với đó, nhiều sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Cách mạng công nghiệp 4.0. Sau 20 năm thành lập, đến nay, Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh đã có khoảng 130 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt gần 7 tỷ USD với sự hiện diện của các tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như: Intel, Microsoft, Nidec, Sanofi, Nipro, Samsung... Điển hình như: Samsung đã vận hành và hoạt động một trung tâm R&D với số vốn đầu tư hàng trăm triệu USD tại TP. Hồ Chí Minh. Điều này là minh chứng khẳng định hướng đi đúng đắn của Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, hiện đang có hàng trăm DN thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin (1 trong 4 lĩnh vực ưu tiên theo Luật Công nghệ cao) hoạt động trong các khu công nghệ thông tin tập trung [6].

Thứ hai, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận phương pháp quản lý hiện tại và tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao

Các doanh nghiệp FDI thường có tiêu chuẩn cao về kỹ năng và trình độ của người lao động. Họ đầu tư vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, giúp nâng cao tay nghề, kiến thức và kỷ luật lao động cho người Việt Nam. Hơn nữa, làm việc trong môi trường quốc tế giúp người lao động Việt Nam tiếp cận với các phương pháp quản lý tiên tiến, hiệu quả, từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc. Nhờ có các DN FDI mà người lao động được trang bị những kỹ năng và kinh nghiệm quý báu, tạo ra một lực lượng lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.

Nguồn vốn FDI khi vào một nền kinh tế nào đó sẽ đem theo công nghệ cao cấp, nhập khẩu các thiết bị, máy móc mà không chỉ làm tăng năng suất lao động mà còn đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ cao hơn để vận hành chúng. Bên cạnh đó, sự gia tăng cạnh tranh nước ngoài dưới hình thức FDI sẽ thúc đẩy các công ty nội địa áp dụng các công nghệ cao cấp hơn và tiết kiệm lao động. Sự áp dụng các công nghệ cao cấp hơn sẽ dẫn đến sự gia tăng tương đối lao động tay nghề mà từ đó sẽ làm gia tăng khoảng cách tiền lương giữa lao động lành nghề và không lành nghề.

Thứ ba, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Dòng vốn FDI thường tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển của khu vực FDI đã tạo ra những ngành nghề mới, thay đổi cơ cấu sản xuất và xuất khẩu, giảm dần sự phụ thuộc vào các ngành khai thác tài nguyên và nông nghiệp truyền thống. Điều này giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và bền vững hơn.

Sự tham gia của khu vực FDI trong nhiều ngành, lĩnh vực, đặc biệt là sự tập trung vốn FDI trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và một số ngành công nghiệp khác, là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng hiện đại, góp phần xây dựng môi trường kinh tế năng động và gia tăng năng lực sản xuất, đa dạng hoá các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao trong nền kinh tế nước ta.

Bên cạnh đó, FDI cũng giúp đẩy mạnh xuất khẩu, đóng góp vào thặng dư cán cân thương mại của Việt Nam, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP. Giá trị xuất khẩu hàng hoá của khu vực doanh nghiệp FDI chiếm 27% vào năm 1995 và tăng gấp gần 3 lần lên tới 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (đạt 245,22 tỷ USD, bao gồm cả dầu thô) trong năm 2021 [7].

Thứ tư, tăng cường xuất khẩu và giúp các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới

Các doanh nghiệp FDI thường có sẵn mạng lưới tiêu thụ và khách hàng trên toàn cầu. Khi đầu tư vào Việt Nam, họ không chỉ sản xuất để đáp ứng nhu vực mà còn hướng tới xuất khẩu sang các thị trường truyền thống và tiềm năng khác. Điều này giúp đa dạng hóa thị trường cho hàng hóa Việt Nam, giảm sự phụ thuộc vào một vài thị trường nhất định. Bên cạnh đó, DN FDI có khả năng nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm bởi họ mang theo công nghệ hiện đại, quy trình sản xuất tiên tiến và tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. Việc áp dụng những yếu tố này giúp nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm của Việt Nam, đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường thế giới, từ đó gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

Ngoài ra, các DN FDI còn giúp chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trên thực tế, các DN FDI có xu hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng cao. Điều này góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam từ các mặt hàng thô, sơ chế sang các sản phẩm tinh chế, có hàm lượng công nghệ và chất xám cao hơn. Ngoài ra, khi các DN FDI hoạt động tại Việt Nam còn giúp chúng ta tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới: Nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam để đặt nhà máy sản xuất nhằm tận dụng các ưu đãi thuế quan từ các FTA mà Việt Nam đã ký kết. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp FDI tăng cường xuất khẩu mà còn kéo theo sự gia tăng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị của họ.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KHU VỰC FDI

Để khu vực FDI thực sự trở thành động lực quan trọng trong việc đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, thu hút các dự án FDI có chọn lọc, ưu tiên chất lượng:

Với quan điểm không thu hút đầu tư bằng mọi giá, cần chú trọng phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường; sử dụng tiết kiệm quỹ đất, nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; tập trung thu hút các dự án chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; công nghiệp hỗ trợ, tham gia sản xuất và liên kết chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao… Cụ thể là các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp ICT, kỹ thuật số, kỹ thuật nano, công nghiệp sinh học, công nghiệp công nghệ cao; ngành cơ khí chế tạo, lắp ráp, ôtô, xe máy; ngành điện, điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; ngành công nghiệp phụ trợ, vật liệu mới...Trước hết, cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để thu hút FDI, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, tạo ra giá trị gia tăng cao, có tiềm năng liên kết với các doanh nghiệp trong nước và đóng góp vào phát triển bền vững.

Hai là, tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước

Đây cũng là một giải pháp trọng tâm nhằm triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW ban hành ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đề ra nhiệm vụ tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Về chính sách thúc đẩy liên kết DN FDI và DN trong nước, Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 cũng đã đề ra quan điểm: “…Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác… Đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư, đan xen lợi ích trong hợp tác đầu tư nước ngoài và kết nối hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước…

Chủ trương liên kết DN FDI với DN trong nước cũng thể hiện rõ ở quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 của Chính phủ. Những cơ chế, chính sách trên nhằm nâng cao chất lượng dòng vốn FDI vào Việt Nam và tận dụng nguồn vốn này để nâng cao cơ chế hợp tác kinh doanh giữa các DN FDI và DN trong nước nhằm cải thiện năng lực sản xuất của các DN trong nước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và giảm vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài. Sự hợp tác này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu và rộng với kinh tế quốc tế [8].

Ba là, thúc đẩy chuyển giao công nghệ

Thời gian qua, việc chuyển giao công nghệ qua các dự án của khu vực FDI tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong các lĩnh vực như: Dầu khí, điện tử, viễn thông...; qua đó tạo ra nhiều sản phẩm mới với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Qua các hoạt động cải tiến công nghệ của các DN FDI tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước.

Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Chính phủ ban hành các văn bản quy định thống nhất việc thu hút, sử dụng nhân tài; cụ thể hóa đầy đủ các nội dung của các giai đoạn trong thu hút nhân tài và tích cực khuyến khích các trường đại học và trung học chuyên nghiệp phát triển các chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp FDI như chuyên ngành công nghệ cao, khoa học kỹ thuật, quản lý và các lĩnh vực có nhu cầu cao của thị trường lao động. Về phía doanh nghiệp FDI cần xây dựng một chiến lược rõ ràng về phát triển nguồn nhân lực, tập trung vào việc tuyển dụng và đào tạo nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Việc đầu tư vào đào tạo kỹ năng và nâng cao năng lực thực hành là rất cần thiết để cung cấp đủ lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp với yêu cầu sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để có được nguồn nhân lực chất lượng, các doanh nghiệp FDI cần hiểu và đánh giá chính xác vai trò của các cán bộ quản lý nhân sự.

Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực FDI

Trong bối cảnh mới, trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; thay đổi của các dòng FDI trên thế giới..., nhiều quốc gia có sự thay đổi chủ trương và chuẩn bị điều kiện để thu hút FDI, do đó Việt Nam cần đổi mới mạnh mẽ, cam kết về điều kiện thuận lợi, về khả năng thu được lợi nhuận, an toàn, an ninh trong dài hạn cho nhà đầu tư nước ngoài cần: (i) Cam kết mạnh mẽ song hành cùng nhà đầu tư nước ngoài, tạo thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả lâu dài và ổn định. Không nên thu hút những dự án có công nghệ trung bình trở xuống và không thu hút những dự án FDI chiếm nhiều đất, tiêu tốn nhiều điện, có nguy cơ lớn gây ô nhiễm môi trường. Có chính sách hấp dẫn, trong đó hỗ trợ giảm hoặc miễn tiền thuê đất, giảm thuế nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu và các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ khi vào Việt Nam làm ăn. Đồng thời, cũng nên có chính sách hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng chuyển giá và khai báo “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, việc khuyến khích và hạn chế phải rõ ràng. Bên cạnh chính sách mang tính khuyến khích, Việt Nam cũng cần có chính sách hạn chế những dự án chỉ có công nghệ trung bình, sử dụng nhiều đất và tiêu tốn nhiều điện lại có nguy cơ ô nhiễm môi trường.

KẾT LUẬN

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò không thể phủ nhận trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là trong mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Để phát huy tối đa tiềm năng của khu vực này, Việt Nam cần có những chiến lược và giải pháp đồng bộ, tập trung vào việc thu hút FDI chất lượng cao, tăng cường liên kết với kinh tế trong nước, thúc đẩy chuyển giao công nghệ thực chất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và hoàn thiện thể chế. Với sự quyết tâm của Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương và sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng hiệu quả nguồn lực từ FDI để đạt được những mục tiêu phát triển đã đề ra, xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Việc chủ động nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức và triển khai các giải pháp một cách hiệu quả sẽ là chìa khóa để hiện thực hóa khát vọng phát triển của dân tộc.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, IX, XII, XIII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Kiều Oanh (2022). Vai trò của dòng vốn FDI trong phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập website: https://tapchicongthuong.vn/vai-tro-cua-dong-von-fdi-trong-phat-trien-kinh-te-viet-nam-101700.htm.

4. Nguyễn Thị Kim Nguyên (2021). Liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước: Thực trạng và một số đề xuất, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 32 năm 2021.

5. Phan Thị Ngọc Hoa, nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Truy cập website: https://tapchitaichinh.vn/nang-cao-hieu-qua-chuyen-giao-cong-nghe-cua-cac-doanh-nghiep-fdi-tai-viet-nam.html

6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2019). Luật Đầu tư 2019.

7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2020). Luật Doanh nghiệp 2020.

8. Vũ Thị Nhài (2021). Tăng cường cơ chế hợp tác kinh doanh giữa DN FDI với DN trong nước nhằm góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam, Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 14, tháng 6/2021.

Ngày nhận bài: 04/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/8/2025; Ngày duyệt đăng: 26/8/2025