Nhận thức, chiến lược và cào cản của các doanh nghiệp cản xuất Việt Nam trong Kỷ nguyên Thương mại Xanh

Trong bối cảnh áp lực từ các quy định thương mại xanh toàn cầu ngày càng gia tăng, nghiên cứu này nghiên cứu về cách các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam nhận thức, đối mặt và xây dựng chiến lược thích ứng với yêu cầu xanh hóa sản xuất.

PGS. TS. Nguyễn Thị Nguyệt

Trường Đại học Thương mại

Email: Nguyet.nt2@tmu.edu.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh áp lực từ các quy định thương mại xanh toàn cầu ngày càng gia tăng, nghiên cứu này nghiên cứu về cách các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam nhận thức, đối mặt và xây dựng chiến lược thích ứng với yêu cầu xanh hóa sản xuất. Nghiên cứu phân tích dựa trên dữ liệu khảo sát từ 95 doanh nghiệp sản xuất tại các khu kinh tế lớn của Việt Nam. Phân tích cho thấy bốn vấn đề chính nổi bật: "Tư duy tuân thủ", "Nghịch lý nguồn lực", "Ốc đảo xanh" và sự nổi lên của các "Doanh nghiệp tiên phong". Kết quả nghiên cứu đưa ra những hàm ý quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý trong việc thiết kế các chương trình hỗ trợ hiệu quả và thúc đẩy một quá trình chuyển đổi xanh toàn diện hơn.

Từ khóa: Sản xuất xanh, thương mại xanh, doanh nghiệp

Abstract

In the context of increasing pressure from global green trade regulations (e.g., the EU's CBAM), this study investigates how manufacturing enterprises in Vietnam perceive, confront, and develop adaptive strategies for the demands of production greening. The research is based on an analysis of survey data from 95 manufacturing firms in Vietnam's major economic zones. The analysis reveals four prominent findings: "Compliance for Survival" "Resource Scarcity Paradox", "Green Silo" The Emergence of "Pioneers". This study provides a multi-faceted understanding of "why" Vietnamese enterprises are responding to greening pressures in their current manner. The findings offer important implications for policymakers and managers in designing effective support programs and fostering a more comprehensive green transition.

Key words: Green manufacturing, green trade, enterprises

JEL: F18, Q56, L11

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự ra đời của các quy định thương mại xanh toàn cầu, điển hình là Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM) của EU, đang thiết lập một "luật chơi" mới. Đối với một nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu như Việt Nam, việc thích ứng không còn là lựa chọn mà là điều kiện sống còn. Dù Chính phủ đã ban hành các chiến lược tham vọng như mục tiêu Net Zero 2050 và Chiến lược Tăng trưởng xanh (Quyết định 1658/QĐ-TTg), một khoảng cách lớn vẫn tồn tại giữa mục tiêu vĩ mô và năng lực thực thi ở cấp độ doanh nghiệp, với ước tính 64% doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị.

Nếu không có giải phải khắc phục vấn đề khung khổ chính sách về sản xuất xanh, thương mại xanh thiếu đầy đủ và hiệu quả (Trần Thị Vân Anh, Phạm Văn Nghĩa, 2014; Nguyễn Thị Kiều Nga, 2015), và các doanh nghiệp Việt Nam chậm chân trong việc thích ứng với thương mại quốc tế mới hướng đến thân thiện với môi trường, sẽ đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi cuộc chơi với những thiệt hại khó lường. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có chủ yếu tập trung vào phân tích chính sách hoặc thống kê bề mặt, trong khi sự hiểu biết về quá trình và trải nghiệm thực tế của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Các câu hỏi về cách nhà quản lý diễn giải áp lực, động lực và rào cản thực sự của họ là gì vẫn chưa được làm rõ.

Vì vậy, nghiên cứu này đặt ra câu hỏi trung tâm: Làm thế nào các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam nhận thức và điều hướng quá trình chuyển đổi sang sản xuất xanh trong bối cảnh thương mại xanh đang định hình lại luật chơi toàn cầu? Nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích thực trạng này và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xanh hóa tại Việt Nam đến năm 2030.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Khái niệm xanh hóa trong sản xuất tại các doanh nghiệp

Một số khái niệm tập trung vào trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp để làm tiêu chí xếp loại doanh nghiệp xanh. Những định nghĩa này cho rằng doanh nghiệp xanh là doanh nghiệp “bảo vệ chất lượng môi trường”, “cam kết lâu dài với các nguyên tắc môi trường trong kinh doanh” (Cooney, 2008), hoặc có kế hoạch để giảm hoặc không có tác động tiêu cực tới môi trường (Sustainable Green, 2013). Những định nghĩa này xóa đi biên giới ngăn cách giữa “doanh nghiệp xanh” và “doanh nghiệp bền vững” (Čekanavičius, Bazytė, Dičmonaitė, 2014), dù môi trường chỉ là một yếu tố được chú ý của doanh nghiệp bền vững.

Báo cáo nghiên cứu “Greening manufactory (GM): past, present and future” (Minhaj A.A.Rehman, 2013) đã tập hợp một cách có trình tự, có hệ thống các nghiên cứu về xanh hóa sản xuất (greening manufactory) của nhiều tác giả trên thế giới về nhiều cách tiếp cận khác nhau với xanh hóa sản xuất như: thiết kế xanh, thiết kế vì môi trường, công nghệ xanh, lập kế hoạch xanh hóa dây chuyền sản xuất, chuỗi cung ứng xanh, cách tiếp cận vòng đời sản phẩm, xanh hóa thị trường, mua sắm xanh, năng suất xanh.

Nghiên cứu này sử dụng khái niệm của Đại học Goodwin, Hoa Kỳ: Xanh hóa sản xuất là quá trình đổi mới quy trình sản xuất và thiết lập các hoạt động thân thiện với môi trường trong lĩnh vực sản xuất. Thông qua quá trình đổi mới đó, các nhà sản xuất sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, giảm ô nhiễm và chất thải, tái chế và tái sử dụng vật liệu, đồng thời phát thải vừa phải trong các quy trình của họ.

Lý thuyết về hành vi doanh nghiệp trong thực hiện sản xuất xanh

Áp lực phải thay đổi

Các doanh nghiệp không chỉ hành động dựa trên logic kinh tế thuần túy mà còn chịu ảnh hưởng từ môi trường thể chế xung quanh, này bao gồm: Sự bắt buộc: Đến từ các quy định pháp luật (Luật BVMT), chính sách của chính phủ (QĐ 1658), và các yêu cầu từ thị trường quốc tế (CBAM, Farm to Fork). Đây là áp lực "bắt buộc phải tuân theo"; Bắt chước: Khi đối mặt với sự không chắc chắn, doanh nghiệp có xu hướng bắt chước các đối thủ cạnh tranh thành công hoặc các doanh nghiệp đầu ngành (ví dụ, các doanh nghiệp trong nước nhìn vào cách Vinamilk, TH Group thực hành ESG) ; Áp lực chuẩn tắc: Đến từ các tiêu chuẩn nghề nghiệp, giá trị xã hội, và kỳ vọng từ các bên liên quan như hiệp hội ngành hàng (VITAS, VASEP) và người tiêu dùng có ý thức.

Trong khi thuyết thể chế giải thích "tại sao phải thay đổi", Lý thuyết dựa trên nguồn lực (RBV) giúp giải thích "tại sao một số thay đổi được còn số khác thì không". RBV cho rằng lợi thế cạn; tranh bền vững đến từ việc sở hữu các nguồn lực và năng lực có giá trị, hiếm, khó bắt chước. Trong bối cảnh sản xuất xanh, các nguồn lực này bao gồm: Nguồn lực tài chính: Khả năng đầu tư vào công nghệ sạch, hệ thống xử lý chất thải; Nguồn lực công nghệ: Sở hữu hoặc tiếp cận công nghệ sản xuất hiệu quả, ít phát thải; Nguồn lực con người: Đội ngũ quản lý có tầm nhìn và nhân viên có kỹ năng vận hành công nghệ xanh; Năng lực tổ chức: Khả năng tích hợp các hoạt động xanh vào chiến lược tổng thể, xây dựng văn hóa doanh nghiệp xanh.

Phương pháp nghiên cứu và thu thập dữ liệu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính, phân tích dữ liệu sơ cấp thu thập từ cuộc khảo sát có cấu trúc 95 doanh nghiệp sản xuất tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, TP.HCM và Cà Mau. Mẫu bao gồm 54 doanh nghiệp FDI và 41 doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và lớn hoạt động trong các lĩnh vực có tác động môi trường đáng kể (cơ khí, điện tử, hóa chất, giấy). Phần lớn các doanh nghiệp này đặt cơ sở tại các khu công nghiệp và khu chế xuất.

Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê (SPSS) để thống kê mô tả, sau đó được phân tích chuyên đề nhằm xác định các khuôn mẫu, động lực và rào cản chính mà doanh nghiệp đối mặt trong quá trình xanh hóa sản xuất.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Tư duy "Tuân thủ để tồn tại"

Theo Nghị quyết 55-NQ/TW, ngành công nghiệp Việt Nam có tiềm năng tiết kiệm năng lượng lớn, khoảng 20%-30% (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Nỗ lực này được thể hiện qua việc áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH) tăng từ 11% (2010) lên 32% (2015), giúp 34% doanh nghiệp giảm tiêu thụ năng lượng trên 5% (Bộ Công Thương, 2021). Các công nghệ cụ thể như thu hồi nhiệt thải trong ngành xi măng có thể tiết kiệm tới 30% điện năng (Bộ Công thương, 2021). Kết quả này đã góp phần giảm mạnh cường độ năng lượng quốc gia từ 392 kgOE/1000USD (2010) xuống còn 261 kgOE/1000USD vào năm 2018 (Trung tâm Thông tin và Dự báo KTXHQG, 2020).

Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy động lực chính thúc đẩy các hoạt động môi trường của đa số doanh nghiệp không xuất phát từ tầm nhìn chiến lược mà từ áp lực tuân thủ. Điều này thể hiện rõ qua việc có tới 89,5% doanh nghiệp coi "hưởng hỗ trợ của nhà nước" là một mục tiêu quan trọng/rất quan trọng (Bảng 1). Các hoạt động như "ghi chép theo dõi tình hình thu gom và xử lý rác thải" được thực hiện thường xuyên/rất thường xuyên (89,5%, Bảng 3) vì đây là yêu cầu pháp lý cơ bản. Ngược lại, các hoạt động mang tính chiến lược và tự nguyện hơn như "tham gia hoạt động kinh tế tuần hoàn" lại có tỷ lệ thực hiện rất thấp, với 40% doanh nghiệp "chưa thực hiện" (Bảng 2). Điều này cho thấy một tư duy phản ứng, bị động: "Chúng tôi làm vì chúng tôi phải làm", thay vì "Chúng tôi làm vì nó tốt cho tương lai của chúng tôi".

Bảng 1: Mục tiêu chủ chốt của doanh nghiệp khi thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường

Đơn vị: %

TT

Mục tiêu của doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động BVMT

Không quan trọng

Ít

Quan trọng

Quan trọng

Rất quan trọng

1

Tiết kiệm chi phí, nguyên nhiên liệu; gia tăng lợi nhuận

2,1

1,1

31,6

65,3

2

Nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao thương hiệu

1,1

1,1

24,2

73,7

2

Tạo hình ảnh đẹp trong mắt khách hàng và công chúng

1,1

1,1

42,1

55,8

3

Thu hút được các khách hàng và các tổ chức cung cấp dịch vụ quan tâm tới môi trường

2,1

4,2

44,2

49,5

4

Cải thiện môi trường sản xuất, nâng cao mức độ hài lòng của nhân viên tại nơi làm việc

1,1

-

32,6

66,3

5

Được hưởng hỗ trợ của nhà nước gắn với các chương trình/chính sách bảo vệ môi trường của nhà nước

3,2

7,4

44,2

45,3

6

Thực hiện theo cam kết với nhà đầu tư và tổ chức tài chính về cải thiện vấn đề môi trường

2,1

1,1

52,6

44,2

Nguồn: Theo tính toán của tác giả dựa trên số liệu điều tra

Xuất hiện “doanh nghiệp tiên phong”

Giữa bức tranh chung còn nhiều thách thức, một nhóm nhỏ các doanh nghiệp đang nổi lên như những "tiền đồn". Đây thường là các doanh nghiệp FDI hoặc các doanh nghiệp nội địa lớn có tỷ trọng xuất khẩu cao. Động lực của họ vượt ra ngoài sự tuân thủ. Với họ, xanh hóa là một công cụ chiến lược. Điều này được minh chứng qua việc 73,7% coi "nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao thương hiệu" là mục tiêu "rất quan trọng" (Bảng 1). Những doanh nghiệp này chủ động tìm kiếm các giải pháp như năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn và xây dựng báo cáo phát triển bền vững (như Vinamilk). Họ không chỉ nhìn thấy chi phí của việc chuyển đổi xanh, mà còn nhìn thấy chi phí của việc không chuyển đổi: đó là mất thị trường, mất thương hiệu và mất lợi thế cạnh tranh trong tương lai.

Nghịch lý thiếu hụt nguồn lực

Có một sự mâu thuẫn rõ ràng giữa nhận thức và khả năng. Dù 96,9% doanh nghiệp nhận thấy việc tiết kiệm chi phí là quan trọng (Bảng 1), nhưng hành động đầu tư để hiện thực hóa điều đó lại rất hạn chế. Nguyên nhân cốt lõi nằm ở sự thiếu hụt các nguồn lực thiết yếu. Nghiên cứu đã chỉ ra: "Việt Nam có số lượng DN vừa và nhỏ... tiềm lực về tài chính, công nghệ và nhân lực chất lượng cao tương đối thấp". Dữ liệu khảo sát củng cố điều này: chỉ 36,8% doanh nghiệp "luôn luôn" cải tiến công nghệ để tăng hiệu quả nguyên liệu (Bảng 2), và chỉ 26,4% "luôn luôn" đầu tư công nghệ để giảm chất thải (Bảng 2). Doanh nghiệp bị kẹt trong một vòng luẩn quẩn: họ cần tiền để đầu tư công nghệ xanh nhằm tiết kiệm tiền, nhưng họ lại không có tiền để bắt đầu.

Bảng 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguyên liệu của doanh nghiệp và mức độ thường xuyên

Đơn vị: %

TT

Biện pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguyên liệu

Mức độ quan trọng theo đánh giá của doanh nghiệp

Chưa thực hiện

Ít thực hiện

Thường xuyên thực hiện

Luôn thực hiện

1

Sử dụng thiết bị kiểm soát, theo dõi khối lượng nguyên liệu tại các khâu trong hệ thống sản xuất

10,5

9,5

41,1

38,9

2

Cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu trong 5 năm gần đây

3,2

15,8

44,2

36,8

3

Cải tiến về sản phẩm nhằm tối ưu hóa tiêu hao nguyên liệu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu trong 5 năm gần đây

3,2

14,7

47,4

34,7

4

Ghi chép theo dõi khối lượng nguyên liệu để sử dụng hiệu quả hơn

2,1

5,3

47,4

45,3

5

Hệ thống thu hồi và tái sử dụng nguyên liệu vương vãi, các bộ phận dư thừa trong quá trình sản xuất

13,7

13,7

38,9

33,7

6

Sử dụng các nguyên vật liệu tái chế

18,9

24,2

33,7

23,2

7

Thiết kế sản phẩm và dịch vụ ít gây ô nhiễm môi trường

3,2

11,6

53,7

29,5

8

Sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường

1,1

11,6

56,8

30,5

9

Tham gia hoạt động kinh tế tuần hoàn

40,0

17,9

25,3

16,8

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam

Hiệu ứng "Ốc đảo Xanh"

Các hoạt động xanh hóa sản xuất thường được thực hiện một cách rời rạc, bị cô lập trong từng "ốc đảo" chức năng thay vì được tích hợp liền mạch vào chiến lược chung. Ví dụ, một doanh nghiệp có thể rất tốt trong việc phân loại rác tại nguồn (87,4% thực hiện thường xuyên/luôn luôn, Bảng 3) nhưng lại rất yếu trong việc "sử dụng nguyên vật liệu tái chế" (43,1% chưa/ít thực hiện, Bảng 2) hay "thiết kế sản phẩm ít gây ô nhiễm" (14,8% chưa/ít thực hiện). Điều này cho thấy xanh hóa được xem như một công việc của phòng hành chính hoặc bộ phận bảo trì, chứ chưa phải là triết lý xuyên suốt từ khâu thiết kế, mua sắm, sản xuất đến marketing.

Kết quả khảo sát tại Hình 1 cho thấy nỗ lực tiết kiệm năng lượng của doanh nghiệp đã có kết quả ban đầu. Mức giảm tiêu thụ năng lượng trên mỗi sản phẩm tăng đáng kể từ 13,4% năm 2018 lên khoảng 14,7% vào năm 2020. Đồng thời, tỷ lệ năng lượng được tái sử dụng duy trì ở mức khá cao, khoảng 36,4%. Tuy nhiên, cả hai chỉ số đều chững lại và tăng trưởng rất khiêm tốn trong giai đoạn 2019-2020, cho thấy các biện pháp cải tiến dường như đã đạt đến giới hạn ban đầu và cần những đột phá mạnh mẽ hơn.

Nhận thức, chiến lược và cào cản của các coanh nghiệp cản xuất Việt Nam trong Kỷ nguyên Thương mại Xanh
Nguồn: Kết quả khảo sát của nghiên cứu

Mặc dù có những chuyển biến tích cực xong cũng nhiều nét tương đồng với báo cáo của Bộ công thương (MOIT, 2009), mức độ “Cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu trong 5 năm gần đây” ở mức 36,8% cần phải được đẩy mạnh hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu của thương mại xanh.

Bảng 3: Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng các biện pháp giảm phát thải/thu gom và xử lý chất thải, tái sử dụng năng lượng, nguyên liệu

Đơn vị: %

TT

Biện pháp giảm phát thải/thu gom và xử lý chất thải

Mức độ quan trọng theo đánh giá của doanh nghiệp

Chưa

thực hiện

Ít

thực hiện

Thường xuyên

thực hiện

Luôn

thực hiện

1

Ghi chép theo dõi tình hình thu gom và xử lý rác thải và chất thải răn phát sinh

4,2

6,3

37,9

51,6

2

Đặt mục tiêu giảm lượng rác thải và chất thải rắn

4,2

7,4

48,4

40,0

3

Đầu tư cải tiến công nghệ/quy trình sản xuất làm giảm phát sinh các loại chất thải trong 5 năm gần đây

12,6

14,7

46,3

26,4

4

Vận hành Hệ thống thu gom và xử lý sơ bộ rác thải và chất thải rắn phát sinh từ quá trình sản xuất

12,6

17,9

36,8

32,6

5

Hệ thống xử lý hoàn toàn rác thải và chất thải rắn phát sinh từ quá trình sản xuất hoặc có ký hợp đồng với đơn vị có năng lực xử lý chất thải rắn

6,3

5,3

27,4

61,1

6

Phân loại rác tái chế và không tái chế

3,2

9,5

27,4

60,0

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát thực trạng hoạt động bảo vệ môi trường trong sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam

HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Nghiên cứu đã phản ánh sự tương tác giữa áp lực thể chế và năng lực nội tại của doanh nghiệp. "Tư duy tuân thủ" là một biểu hiện kinh điển của áp lực cưỡng chế từ thuyết thể chế. Doanh nghiệp Việt Nam đang ở giai đoạn hình thành và phát triển của quá trình thể chế hóa, nơi hành vi chủ yếu được định hình bởi luật pháp và quy định. Tuy nhiên, để tiến tới các giai đoạn cao hơn của áp lực (bắt chước và chuẩn tắc), các doanh nghiệp vấp phải Nghịch lý Thiếu hụt Nguồn lực, một vấn đề mà Lý thuyết Dựa trên Nguồn lực (RBV) đã chỉ rõ. Thiếu vốn và công nghệ là rào cản hữu hình ngăn cản họ bắt chước các doanh nghiệp tiên phong và đáp ứng các chuẩn mực cao hơn. "Hiệu ứng Ốc đảo Xanh" cho thấy sự thiếu vắng một năng lực tổ chức quan trọng: khả năng tích hợp. Đây là một năng lực vô hình nhưng lại quyết định sự thành công của chiến lược xanh. Ngược lại, các "“Doanh nghiệp tiên phong”" là những doanh nghiệp đã bắt đầu xây dựng được các nguồn lực và năng lực này, biến áp lực thể chế thành lợi thế cạnh tranh.

Để hiện thực hóa mục tiêu xanh hóa sản xuất đến 2030, cần những giải pháp đột phá, chuyển từ tư duy đối phó sang kiến tạo lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thương mại xanh.

Về phía chính phủ, các chính sách hỗ trợ cần được hoàn thiện theo hướng thay vì các chương trình chung chung, cần có các gói hỗ trợ gắn với thực tiễn, nhắm vào việc tháo gỡ "Nghịch lý Thiếu hụt Nguồn lực" cho nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, ví dụ như các quỹ tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi, các chương trình chuyển giao công nghệ sạch giá rẻ. Chính phủ cần sớm vận hành thị trường carbon minh bạch, đồng thời ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về sản phẩm xanh và kinh tế tuần hoàn tương thích với chuẩn mực quốc tế (như ISO 14000 series, CBAM). Thay vì hỗ trợ dàn trải, cần thiết lập các cơ chế ưu đãi thuế và tín dụng xanh dựa trên hiệu suất (performance-based), gắn liền với các chỉ số Environmental, Social, and Governance (ESG) và mức độ giảm phát thải đã được kiểm chứng. Điều này sẽ tạo ra một sân chơi công bằng và khuyến khích đầu tư thực chất.

Về phía doanh nghiệp, đối với các nhà quản lý, cần có một sự thay đổi trong tư duy, từ coi xanh hóa là một khoản chi phí tuân thủ sang một khoản đầu tư chiến lược. Việc xây dựng năng lực tích hợp và văn hóa doanh nghiệp xanh cần được đặt làm ưu tiên. Các doanh nghiệp cần tích hợp ESG vào lõi quản trị, coi đây là thước đo sức khỏe dài hạn. Doanh nghiệp phải chủ động chuyển đổi sang chuỗi cung ứng bền vững, ứng dụng công nghệ số để truy xuất nguồn gốc carbon và quản lý tài nguyên hiệu quả. Việc xây dựng báo cáo bền vững theo các chuẩn mực quốc tế không chỉ để tuân thủ mà còn là công cụ thu hút vốn đầu tư xanh và tiếp cận các thị trường khó tính.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Công Thương (2021). Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hướng đến sự phát triển bền vững năng lượng Việt Nam, truy cập ngày 09/11/2021, tại: https://moit.gov.vn/tin-tuc/su-dung-nang-luong-tiet-kiem-va-hieu-qua/su-dung-nang-luong-tiet-kiem-va-hieu-qua-huong-den-su-phat-trien-ben-vung-nang-luong-viet-nam.html

2. Čekanavičius, L., Bazytė, R. & Dičmonaitė, A. (2014). Green Business: Challenges and Practices, EKONOMIKA, 93(1), 74-88.

3. Cooney, S. (2008). Build a Green Small Business: Profitable Ways to Become an Ecopreneur, McGraw-Hill, New York.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Tiết kiệm năng lượng đem lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, truy cập ngày 05/11/2021, tại: https://dangcongsan.vn/kinh-te/tiet-kiem-nang-luong-dema-lai-loi-ich-thiet-thuc-cho-doanh-nghiep-592932.html

5. Minhaj, A. & Rehman, A. (2013). “Greening manufactory (GM): Past, Present and Future”.

6. Nguyễn Thị Kiều Nga (2015). Báo cáo nghiên cứu Công nghiệp hóa sạch hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam.

7. Trần Thị Vân Anh & Phạm Văn Nghĩa (2014). Báo cáo nghiên cứu Hỗ trợ tăng trưởng xanh: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam.

8. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia (2020). Tình hình thực hiện nhiệm vụ “Xanh hóa sản xuất” trong Chiến lược Tăng trưởng xanh quốc gia.

Ngày nhận bài: 29/4/2025; Ngày hoàn thiện biên tập 24/5/2025; Ngày duyệt đăng: 12/6/2025