Hiệu quả các mô hình hợp tác liên kết sản xuất, tiêu thụ gỗ rừng trồng tại các tỉnh miền Trung

Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình hộ trồng rừng có liên kết tại 5 tỉnh miền Trung (Phú Yên, Bình Định, Huế, Quảng Trị và Thanh Hóa).

Đinh Hữu Hoàng, Hà Thị Mừng, Nguyễn Thị Phương Lam, Hà Thị Phương Thảo

Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn

Đậu Ngọc Trâm

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Rừng trồng hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong cung cấp gỗ nguyên liệu tại Việt Nam và phục vụ chế biến xuất khẩu, tuy nhiên, đa số các hộ vẫn khai thác rừng non với hiệu quả kinh tế thấp. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình hộ trồng rừng có liên kết tại 5 tỉnh miền Trung (Phú Yên, Bình Định, Huế, Quảng Trị và Thanh Hóa). Kết quả cho thấy, mô hình liên kết trồng rừng 8 năm có chứng chỉ FSC mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, mô hình liên kết 5 năm không có chứng chỉ FSC đạt hiệu quả thấp nhất và mô hình 7 năm không chứng chỉ có hiệu quả trung bình. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý quản trị liên quan.

Từ khóa: Hợp tác liên kết, mô hình hộ trồng rừng, miền Trung

Summary

Household plantation forests play a vital role in supplying raw timber in Vietnam and supporting the wood processing industry for export. However, most households still harvest immature forests, resulting in low economic efficiency. This study evaluates the economic performance of linked household plantation models across five central provinces (Phu Yen, Binh Dinh, Hue, Quang Tri, and Thanh Hoa). The findings indicate that the 8-year plantation linkage model with FSC certification yields the highest economic efficiency; the 5-year linkage model without FSC certification shows the lowest efficiency, while the 7-year non-certified model demonstrates moderate results. Based on these findings, the study proposes several managerial implications.

Keywords: Cooperative linkage, household plantation model, Central Vietnam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong hơn một thập kỷ qua, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục trong công cuộc bảo vệ phát triển rừng, cũng như thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp chế biến lâm sản xuất khẩu. Với triển vọng thị trường về nhu cầu các sản phẩm gỗ tăng gần 3 lần vào năm 2050 (Midgley và cộng sự, 2017), dư địa thị trường rõ ràng là còn rất lớn. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu, ngành công nghiệp chế biến gỗ vẫn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Trong khi đó, lượng gỗ đủ chất lượng rừng trồng được sản xuất trong nước đưa vào chế biến đang ở mức rất thấp. Trong tổng số diện tích rừng trồng là rừng sản xuất 4.01 triệu ha, thì diện tích do hộ gia đình và cá nhân chiếm gần 50% với 1,8 triệu ha (Bảo Thắng, 2024). Trong diện tích này, ước tính khoảng 70%-80% hộ trồng rừng sản xuất khai thác rừng ở giai đoạn sớm, thường là 4-6 năm, để bán nguyên liệu gỗ dăm, bột giấy… đáp ứng nhu cầu sinh kế, đặc biệt là các hộ nghèo (Dinh và cộng sự, 2023). Bên cạnh đó, với việc trì hoãn khai thác thêm 4-5 năm và thực hiện phương thức quản lý rừng bền vững có chứng chỉ, hiệu quả canh tác rừng (chủ yếu là keo) tăng lên 200%-300% (Masserani và cộng sự, 2017; Dinh và cộng sự, 2024). Đứng trước thách thức này, ở cấp độ vĩ mô, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành chiến lược phát triển 1 triệu ha rừng gỗ lớn đến năm 2030, nhưng đến nay vẫn chưa có các chính sách triển khai thực thi hiệu quả chương trình này. Trong tổng số 4.74 triệu ha rừng trồng trên toàn quốc, các tỉnh miền Trung chiếm gần 40% với 1,87 triệu ha. Trong đó, đa phần diện tích rừng trồng tại khu vực miền Trung vẫn là rừng keo chu kỳ ngắn (5 năm), chủ yếu do các hộ gia đình nhỏ lẻ tự trồng, không có chứng chỉ rừng (CCR), sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chế biến dăm gỗ hoặc bột giấy.

Ở cấp độ vi mô, hiện xuất hiện nhiều mô hình liên kết đơn giản giữa hộ dân - thương lái - doanh nghiệp hoặc hộ dân - hợp tác xã (HTX) - doanh nghiệp, trong đó các hộ dân bán gỗ cho thương lái với giá thấp, thiếu minh bạch về chất lượng và số lượng, còn thương lái giữ vai trò phân phối tới các doanh nghiệp. Đây là mô hình thiếu ràng buộc hợp đồng, dễ dẫn đến tình trạng ép giá và rủi ro cao cho người trồng rừng, đặc biệt khi giá gỗ dăm biến động.

Trong khi đó, một số doanh nghiệp trong và ngoài nước đã bắt đầu hợp tác với các hộ dân trên cả nước để ký kết hợp đồng liên kết sản xuất gỗ lớn, có chứng chỉ nhằm phục vụ chế biến đồ gỗ nội ngoại thất. Các liên kết này tập trung vào sản phẩm gỗ lớn, chu kỳ canh tác dài (7-10 năm), có chứng chỉ. Tuy các mối liên kết này có vẻ bài bản, người dân nhận được nhiều hỗ trợ, nhưng phần lớn tồn tại tình trạng thiếu hợp đồng bao tiêu rõ ràng và thiếu chia sẻ rủi ro, dẫn đến giá thu mua thường xuyên bị thương lái ép khi nguồn cung cao, hoặc vẫn tồn tại tình trạng người dân “bẻ kèo” khi giá trên thị trường tốt hơn, gây nhiều bất ổn cho doanh nghiệp đối với việc cung cấp sản phẩm gỗ đầu vào có chất lượng.

Trước thực trạng trên, việc đánh giá thực trạng các mối liên kết và so sánh hiệu quả kinh tế với các hộ trồng rừng không liên kết, nhằm giúp cơ quản chủ quản xây dựng các chính sách hiệu quả, khả thi góp phần hiện thực hóa chương trình 1 triệu ha rừng gỗ lớn, cũng như khuyến khích thúc đẩy hợp tác liên kết canh tác gỗ dài ngày, có hiệu quả cao, đặt ra nhu cầu cấp thiết cho nghiên cứu này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dữ liệu được thu thập tại 5 tỉnh miền Trung gồm: Phú Yên, Bình Định, Thừa Thiên Huế và Thanh Hóa với tổng số 150 hộ có và không liên kết, ở các độ tuổi trồng keo khai thác non và keo gỗ lớn, có và không có chứng chỉ rừng FSC. Các hộ được thu thập theo phương pháp phân tầng và ngẫu nhiên có định hướng. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng thu thập thông tin từ các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hợp tác liên kết trồng rừng. Các đối tượng được phỏng vấn theo phương pháp bán cấu trúc, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm có sự tham gia. Các số liệu thu thập được xử lý trên trên phần mền Excel và Stata 18. Nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính dựa theo các chỉ tiêu tài chính lâm nghiệp như: Giá trị hiện tại ròng (NPV), Chi phí - lợi ích (CBA), Giá trị tương đương hàng năm (EAB) và Tỷ suất hoàn vốn nội bộ.

HIỆU QUẢ KINH TẾ HỢP TÁC LIÊN KẾT TRỒNG RỪNG TẠI CÁC TỈNH MIỀN TRUNG

Mô hình hợp tác, liên kết trồng rừng 5 năm

Mô hình trồng rừng 5 năm là hình thức phổ biến nhất trong chuỗi giá trị gỗ rừng trồng tại khu vực miền Trung, đặc biệt tại các tỉnh như: Phú Yên, Bình Định và Thanh Hóa. Đây là mô hình có chi phí đầu tư thấp, thời gian xoay vòng vốn ngắn và phù hợp với điều kiện kinh tế của phần lớn các hộ trồng rừng nhỏ lẻ, có thu nhập hạn chế và cần dòng tiền nhanh để phục vụ sinh kế. Do đó, mô hình này được lựa chọn rộng rãi như một phương thức đảm bảo thu nhập ngắn hạn cho người dân nông thôn miền núi.

Trong mô hình này, liên kết, hợp tác sản xuất phổ biến nhất là giữa hộ dân - thương lái - doanh nghiệp. Thêm vào đó, một số vùng hộ dân có diện tích rừng lớn, đã hình thành hợp tác liên kết giữa hộ dân - HTX (nhóm hộ) - doanh nghiệp. Tuy nhiên, hình thức giao dịch vẫn là thỏa thuận miệng hoặc giao kèo không chính thức, không có hợp đồng pháp lý ràng buộc cụ thể. Điều này dẫn đến tính thiếu ổn định trong liên kết, nhất là khi có biến động thị trường giá cả không ổn định trong 10 năm qua hoặc thiên tai xảy ra. Đa số hộ bán qua thương lái trung gian, khiến chuỗi giá trị càng bị phân mảnh, dễ bị thao túng bởi các khâu trung gian.

Bảng 1: Sản lượng và giá trung bình trên 1 ha rừng 5 năm

tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Phú Yên

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

Sản lượng (Tấn gỗ)

100

115

127

113

104

Giá (Nghìn đồng)

1.050

1.120

1.090

1.080

1.110

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Các hộ dân trồng rừng 5 năm có hợp tác liên kết lẫn nhau, họ chia sẻ kỹ thuật trồng, tham khảo giá bán, nên các thương lái thu mua giá cao hơn so với các hộ lẻ tự trồng, tự bán. Cụ thể, sản lượng trung bình của các hộ đạt từ 100-127 tấn/ha với giá bán dao động khoảng 1.050-1.120 nghìn đồng/tấn (Bảng 1). Tuy nhiên, vì thời gian trồng ngắn, sản phẩm chính từ mô hình này là gỗ keo nhỏ đường kính dưới 12 cm, chủ yếu phục vụ cho các nhà máy giấy hoặc xuất khẩu dạng nguyên liệu thô với giá trị gia tăng thấp. Mặt khác, do không có chứng chỉ về nguồn gốc hợp pháp và bền vững, với các sản phẩm gỗ từ mô hình này, các doanh nghiệp gần như rất khó tiếp cận các thị trường như: châu Âu, Mỹ hoặc Nhật Bản.

Một vấn đề của mô hình trồng rừng 5 năm mà các hộ dân không có hợp tác liên kết hoặc không tham gia HTX này là tình trạng bị động trong xác định giá bán. Khi rừng đến chu kỳ khai thác, các hộ dân thường buộc phải bán gỗ ngay để thu hồi vốn hoặc trang trải chi tiêu cấp thiết, nên nếu không hợp tác liên kết, các hộ dân dễ bị các thương lái hoặc doanh nghiệp ép giá, nhất là trong điều kiện dư cung hoặc giá dăm gỗ trên thị trường thế giới giảm mạnh.

Dẫu vậy, vẫn có một số trường hợp tích cực ghi nhận trong mô hình này. Tại Thanh Hoá, một số doanh nghiệp có mối quan hệ hợp tác lâu dài với địa phương đã chủ động thiết lập các liên kết bán chính thức hoặc dài hạn với nhóm hộ, giúp giá ổn định hơn. Tuy nhiên, số lượng các trường hợp này vẫn còn rất hạn chế và chưa mang tính phổ biến ở quy mô vùng.

Bảng 2: Phân tích lợi ích - chi phí trung bình trên 1 ha rừng 5 năm

tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Phú Yên

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

NPV (Nghìn đồng)

57.910

71.606

63.854

60.180

55.669

EAB (Nghìn đồng)

14.124

17.464

15.573

14.677

13.577

BCR

1,93

2,01

1,86

1,97

1,93

IRR

43,03%

40,78%

36,22%

38,31%

38,66%

Ghi chú: Lãi suất được tính 7%/năm, lạm phát 3%/năm, số liệu thu thập năm 2024

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Mặc dù chỉ số IRR của rừng 5 năm có hợp tác liên kết khá cao (từ 36% đến trên 43%) do thời gian hoàn vốn ngắn, nhưng giá trị hiện tại ròng (NPV) tương đối thấp, chỉ đạt từ 55-72 triệu đồng/ha, cùng với BCR dao động quanh mức 1,9-2,0. Kết quả phân tích cho thấy, EAB chỉ đạt khoảng 13-17 triệu đồng/ha/năm, thấp nhất trong các mô hình khảo sát (Bảng 2). Dù vậy, mô hình rừng 5 năm có liên kết, hợp tác có NPV trung bình cao hơn 5%-10% so với rừng 5 năm không có liên kết. Nguyên nhân chính là do việc hợp tác giúp giảm chi phí đầu vào như: phân bón, giống cây trồng bằng cách mua với số lượng lớn, giá rẻ hơn và tăng giá đầu ra nhờ tiếp cận được nhiều kênh phân phối hơn. Tuy nhiên, mức lợi nhuận của rừng 5 năm có liên kết, hợp tác tương đối thấp nếu xét trong bối cảnh chi phí đầu tư ngày càng tăng và rủi ro thiên tai, biến động thị trường luôn hiện hữu. Mô hình này chỉ phù hợp với hộ nghèo hoặc hộ thiếu vốn đầu tư dài hạn, nhưng không mang lại lợi ích vượt trội nếu xét về tổng thu nhập và giá trị tích lũy lâu dài.

Mô hình hợp tác, liên kết trồng rừng gỗ lớn 7-8 năm không có FSC

Mô hình trồng rừng gỗ lớn chu kỳ 7-8 năm không có chứng chỉ FSC đang dần mở rộng tại các tỉnh như: Bình Định, Quảng Trị, Huế và Thanh Hóa, tuy nhiên, diện tích trồng chiếm chưa tới 10%. Đây là lựa chọn phù hợp với các hộ có điều kiện tài chính khá hơn, chấp nhận đầu tư dài hạn.

Các hộ dân hoạt động theo mô hình này có tính hợp tác, liên kết mạnh hơn so với mô hình rừng 5 năm. Liên kết trong mô hình này diễn ra dưới 3 hình thức chính: (i) Hộ dân - thương lái - doanh nghiệp chế biến; (ii) Hộ dân - HTX - doanh nghiệp, hoặc (iii) Hộ dân - doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù chu kỳ sản xuất dài hơn và cho sản phẩm có giá trị cao hơn, nhưng đa phần các liên kết trong mô hình này hầu hết vẫn thiếu hợp đồng bao tiêu chính thức, chưa có cam kết lâu dài giữa bên bán và bên mua. Do đó, hộ trồng rừng vẫn đối diện với rủi ro thị trường khi đến kỳ khai thác và vẫn bị tình trạng ép giá khi nguồn cung tăng cao cục bộ.

Bảng 3: Sản lượng và giá trung bình trên 1ha rừng 7-8 năm không có chứng chỉ

tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

Loại rừng

7 năm

7 năm

8 năm

8 năm

Loại gỗ tròn bán

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Sản lượng (Tấn)

95

95

94

97

109

98

96

67

Giá (Nghìn đồng)

1.120

1.380

1.090

1.330

1.080

1.350

1.110

1.310

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Về sản lượng và giá bán, các hộ có hợp tác, liên kết tham gia mô hình này đạt mức năng suất trung bình từ 94-109 tấn/ha tùy tỉnh và 2 loại sản phẩm chủ yếu là gỗ dăm hoặc gỗ xẻ. Giá bán gỗ xẻ dao động từ 1.310-1.380 nghìn đồng/tấn, cao hơn gỗ dăm khoảng 200-300 nghìn đồng/tấn (Bảng 3).

Bảng 4: Phân tích lợi ích - chi phí trung bình trên 1 ha rừng 7-8 năm không có chứng chỉ

tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

Loại rừng

7 năm

7 năm

8 năm

8 năm

NPV (Nghìn đồng)

169.216

158.089

178.763

133.482

EAB (Nghìn đồng)

31.399

29.334

29.937

22.354

BCR

2,67

2,40

2,69

2,35

IRR

54,45%

51,63%

40,31%

46,12%

Ghi chú: Lãi suất được tính 7%/năm, lạm phát 3%/năm, số liệu thu thập năm 2024

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Mô hình hợp tác, liên kết trồng rừng gỗ lớn 7-8 năm không có chứng chỉ đang dần khẳng định là phương án sản xuất hiệu quả hơn trong điều kiện hộ dân chưa đủ điều kiện tiếp cận chứng chỉ FSC. Với sản lượng gỗ dăm và gỗ xẻ, mức giá bán cũng tăng đáng kể, đặc biệt ở gỗ xẻ không chứng chỉ với mức 1.310-1.380 nghìn đồng/tấn. Nhờ đó, NPV ở các tỉnh như: Bình Định, Quảng Trị dao động từ 158-179 triệu đồng/ha, IRR vượt 50% ở một số nơi (Bình Định đạt 54,45%) và BCR trên 2,5 - phản ánh rõ khả năng sinh lời hấp dẫn trong dài hạn. EAB dao động từ 22-31 triệu đồng/ha/năm, các tỉnh như Bình Định và Quảng Trị đạt mức cao nhất (~29–31 triệu đồng), nhờ vào sản lượng gỗ cao và giá bán tốt, đặc biệt là gỗ xẻ (Bảng 4).

Ngay cả khi chưa có chứng chỉ, rừng gỗ lớn vẫn mang lại hiệu quả ổn định và vượt trội hơn rừng 5 năm, đặc biệt khi có sự tổ chức liên kết dọc giúp tiết giảm chi phí khai thác và tiêu thụ. Đây là mô hình tương đối phù hợp với điều kiện của nhiều hộ dân hiện nay: không có chứng chỉ, nhưng có quy mô rừng lớn hơn và có sự tham gia liên kết dọc với các doanh nghiệp khai thác hoặc chế biến, dù phần lớn là các thỏa thuận miệng hoặc hợp đồng không chính thức, mặc dù đa dạng sản phẩm cả hộ dân và doanh nghiệp đều tạo giá trị gia tăng cao hơn. Tuy nhiên, vì không có chứng chỉ FSC, nên sản phẩm gỗ của doanh nghiệp chế biến vẫn chủ yếu tiêu thụ trong nước và khó tiếp cận thị trường xuất khẩu khó tính.

Mô hình hợp tác, liên kết trồng rừng gỗ lớn 7-8 năm có FSC

Trên phạm vi quốc gia, tỷ lệ diện tích rừng trồng có chứng chỉ bền vững cũng nhỏ so với tổng diện tích rừng trồng: Năm 2020, chỉ khoảng 489.000 ha rừng trồng gỗ lớn được cấp chứng chỉ quản lý bền vững, chiếm 13% tổng diện tích rừng trồng sản xuất cả nước. Tại các tỉnh trồng rừng trọng điểm như: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, con số này dao động từ 10%-20% (Quảng Trị ~20,2%, Bình Định ~9,3%, không tỉnh nào vượt quá 20% diện tích rừng trồng đạt chứng chỉ). Những diện tích đã có FSC phần lớn nhờ vào các dự án quốc tế (WWF, FSC Việt Nam, GIZ…) hỗ trợ thành lập nhóm chứng chỉ cho hộ nhỏ.

Mô hình hợp tác, liên kết trồng rừng gỗ lớn chu kỳ 7-8 năm có chứng chỉ FSC là hình thức hợp tác có hiệu quả kinh tế và bền vững cao nhất hiện nay và được tổ chức hiệu quả ở một số tỉnh như: Quảng Trị, Huế. Mô hình này thường gắn với liên kết dọc 3 bên: hộ dân - HTX - doanh nghiệp. Trong đó, các HTX đóng vai trò trung gian trong hỗ trợ kỹ thuật, giám sát quy trình canh tác, tập trung vùng nguyên liệu và ký kết hợp đồng đầu ra với doanh nghiệp. Mô hình này có mối liên kết mạnh nhất so với các mô hình trước, vì nhiều khu vực vẫn có gắn với các hợp đồng bao tiêu dài hạn, doanh nghiệp thu mua gỗ xẻ không chỉ thu mua giá cao hơn, mà còn hỗ trợ chi phí cấp chứng chỉ và đôi khi là tài chính cho một số hộ (cho vay với lãi suất ưu đãi). Mô hình hợp tác liên kết này nhận được nhiều sự hỗ trợ từ được doanh nghiệp lớn hơn, chính quyền, tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội.

Bảng 5: Sản lượng và giá trung bình trên 1 ha rừng 7-8 năm có chứng chỉ FSC

tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

Loại rừng

7 năm có CCR

7 năm CCR

8 năm CCR

8 năm CCR

Loại gỗ tròn bán

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Gỗ dăm

Gỗ xẻ

Ván ép

Sản lượng Ttấn)

119

108

119

108

93

135

61

67

57

Giá (Nghìn đồng)

1.120

1.480

1.090

1.430

1.080

1.450

1.110

1.310

1.300

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Ở Phú Yên, trồng rừng chứng chỉ FSC bắt đầu vào năm 2018. Hiện tại, các hộ có rừng 7-8 năm có chứng chỉ chưa thu hoạch, nên nghiên cứu chỉ phân tích 4 tỉnh còn lại (Bảng 5). Mô hình rừng trồng 7-8 năm có FSC đạt sản lượng gỗ xẻ trung bình cao hơn (108-135 tấn/ha), giá bán cao hơn từ 100-200 nghìn đồng/tấn so với gỗ không chứng chỉ (trung bình đạt 1.310-1.480 nghìn đồng/tấn), nhờ đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng và môi trường của thị trường quốc tế. Ở Thanh Hoá, các doanh nghiệp có hỗ trợ hộ dân lần đầu chuyển đổi trồng rừng FSC về 50% cây giống và phân bón, tuy nhiên, theo khảo sát hiện tại, đa số các hộ dân được thu mua gỗ xẻ bằng giá so với gỗ không có FSC

Bảng 6: Phân tích lợi ích - chi phí trung bình trên 1 ha rừng 7-8 năm

có chứng chỉ FSC tại các tỉnh miền Trung năm 2024

Bình Định

Huế

Quảng Trị

Thanh Hoá

Loại rừng

7 năm CER

7 năm CER

8 năm CER

8 năm CER

NPV (ngàn đồng)

200.571

190.024

217.415

163.586

EAB (ngàn đồng)

37.217

35.260

36.410

27.395

BCR

2,533

2,362

2,785

2,498

IRR

51,07%

50,15%

41,96%

42,44%

Ghi chú: Lãi suất được tính 7%/năm, lạm phát 3%/năm, số liệu thu thập năm 2024

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra năm 2024

Mô hình rừng trồng có chứng chỉ FSC, đặc biệt là các hộ có liên kết dọc với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, vẫn là phương án tối ưu nhất xét về hiệu quả kinh tế và tính bền vững. Hiệu quả tài chính vì thế vượt trội, với NPV dao động từ 163-217 triệu đồng/ha, IRR ổn định ở mức cao (trên 45%) và BCR trung bình đạt trên 2,6 cho thấy hiệu quả không chỉ về tài chính, mà còn về ổn định đầu ra và tăng khả năng mở rộng quy mô vùng nguyên liệu tập trung. Các chỉ số EAB đạt từ 27-37 triệu đồng/ha/năm. Bình Định và Quảng Trị là 2 tỉnh dẫn đầu với mức EAB trên 36 triệu đồng (Bảng 6). Mức lợi nhuận hằng năm này phản ánh hiệu quả bền vững của mô hình rừng có chứng chỉ, đặc biệt trong bối cảnh các hộ trồng rừng ngày càng cần tính toán kỹ về dòng tiền dài hạn, khả năng tích lũy và hoàn vốn đầu tư. Hơn nữa, EAB cao đồng nghĩa với việc người dân có thể tính toán được mức thu nhập kỳ vọng ổn định hàng năm, là yếu tố then chốt để thu hút thêm hộ dân và HTX tham gia mở rộng diện tích rừng có FSC trong tương lai.

Một điểm đáng lưu ý là chi phí đầu tư ban đầu để đạt được chứng chỉ FSC có thể là rào cản lớn đối với các hộ nhỏ lẻ, tuy nhiên, ở một số tỉnh, nhờ các chương trình hỗ trợ từ các doanh nghiệp (như: Scansia Pacific, Bamboo Vina) hoặc các tổ chức quốc tế (WWF, Helvetas, GIZ…), các HTX hoặc nhóm hộ tại Quảng Trị, Huế, Thanh Hóa đã tiếp cận được chứng chỉ này mà không phải gánh toàn bộ chi phí. Do đó, yếu tố quyết định hiệu quả không chỉ nằm ở bản thân mô hình liên kết trồng rừng, mà còn phụ thuộc lớn vào tổ chức liên kết, sự hỗ trợ kỹ thuật - tài chính và cơ chế bao tiêu ổn định từ doanh nghiệp hoặc chính quyền địa phương. Những con số này chứng minh rằng liên kết dọc kết hợp chứng chỉ rừng là hướng đi bền vững và có lợi nhuận cao trong dài hạn.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết trồng rừng giữa các thành phần kinh tế và hộ gia đình với các chu kỳ khác nhau, sản phẩm khác nhau với phương thức quản lý khác nhau. Trong các mô hình trồng rừng tại 5 tỉnh miền Trung, mô hình rừng trồng 7-8 năm có chứng chỉ FSC mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội nhất, với giá trị tương đương hàng năm (EAB) đạt trên 36 triệu đồng/ha, đặc biệt nổi bật tại Bình Định và Quảng Trị. Đây là kết quả của sự kết hợp giữa liên kết dọc bền vững, hỗ trợ kỹ thuật - tài chính, thực hiện quản lý rừng bền vững có chứng chỉ và cam kết bao tiêu đầu ra của doanh nghiệp, giúp tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu và giảm rủi ro cho người trồng rừng. Trái lại, mô hình rừng trồng 5 năm không chứng chỉ FSC tại các tỉnh như: Phú Yên và Thanh Hóa chỉ đạt EAB ở mức thấp nhất (13-14 triệu đồng/ha/năm), do chu kỳ ngắn, giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc nhiều vào thị trường nguyên liệu thô. Tuy nhiên, mô hình này hiện được một số hộ gia đình khó khăn ưa thích vì quay vòng vốn nhanh, giảm thiểu rủi ro do cháy và gãy đổ do mưa bão và đáp ứng nhu cầu sinh kế cấp bách của họ. Mô hình rừng trồng 7 năm không FSC tuy cho hiệu quả cao hơn mô hình 5 năm, nhưng vẫn chưa bằng mô hình có chứng chỉ có cùng chu kỳ kinh doanh, đặc biệt phát huy tốt tại Bình Định và Quảng Trị nhờ sản lượng và giá bán gỗ xẻ cao hơn, song vẫn còn hạn chế trong tiếp cận thị trường khó tính và thiếu tính bền vững.

Như vậy, với các mô hình liên kết trồng rừng gỗ lớn, thay vì khai thác non ở năm thứ 5, hộ gia đình chỉ cần chờ đợi thêm 3-4 năm có chứng chỉ quản lý rừng bền vững là đạt hiệu quả ròng gấp 2-3 lần so với mô hình liên kết trồng rừng non. Do đó, để khuyến khích người dân chuyển từ liên kết trồng rừng non sang rừng gỗ lớn, việc hổ trợ tài chính và thực hiện quản lý rừng bền vững có chứng chỉ là cần thiết. Hiện nay, một số doanh nghiệp đã hỗ trợ các hộ dân lãi suất ngân hàng thấp hơn 2% so với thị trường và các doanh nghiệp này cùng với chính quyền địa phương cũng hợp lực kêu gọi các tổ chức quốc tế hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để cấp chứng chỉ rừng gỗ lớn. Do đó, Nhà nước cần có các chính sách tài chính cụ thể như: thiết kế các gói tín dụng linh hoạt, lãi suất thấp, thời gian gia hạn phù hợp với chu kỳ trồng rừng và nên kết hợp với cơ chế bảo lãnh tín dụng thông qua HTX.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần nghiên cứu nhân rộng mô hình hợp tác liên kết 3 bên do IKEA làm đầu mối để kết nối nông dân trồng rừng ra chuỗi giá trị toàn cầu, dần nâng cao giá trị gia tăng cho người trồng rừng và giúp họ chuyển đổi hiệu quả từ trồng và khai thác rừng non sang trồng rừng gỗ lớn, bền vững và có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, Nhà nước và chính quyền địa phương cần có chính sách hỗ trợ chi phí đánh giá và duy trì chứng chỉ FSC, nhất là trong giai đoạn đầu chuyển đổi mô hình sản xuất (như ở tỉnh Phú Yên), khuyến khích vai trò của HTX phù hợp với Luật HTX mới 2023. Theo đó, HTX cần được khuyến khích làm đầu mối tổ chức đánh giá nhóm chứng chỉ rừng, huy động thành viên chính góp vốn với sự hổ trợ của Nhà nước (tương tự như Nghị định 98/2018 về liên kết trong nông nghiệp) để xây dựng các xưởng cưa xẻ gỗ đáp ứng chuỗi hành trình sản phẩm và gia tăng giá trị chế biến cho người trồng rừng trong khuôn khổ liên kết.

Cuối cùng, hiện nay, các hợp đồng còn khá lỏng lẻo về pháp lý, cần xây dựng khung pháp lý và hỗ trợ các bên liên quan xây dựng hợp đồng chuẩn về liên kết chuỗi giá trị gỗ rừng trồng (giữa hộ dân – HTX – doanh nghiệp), với các nội dung rõ ràng về giá thu mua, phân chia lợi nhuận, cam kết đầu ra và cơ chế xử lý tranh chấp. Việc chuẩn hóa các hợp đồng sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của người trồng rừng, hạn chế rủi ro, tình trạng thương lái ép giá và tạo lòng tin để khuyến khích mở rộng quy mô liên kết tại miền Trung nói riêng và cả nước nói chung./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo Thắng (2024). Xuất khẩu lâm sản đạt kỷ lục, vượt 17 tỷ USD, truy cập từ https://nongnghiepmoitruong.vn/xuat-khau-lam-san-dat-ky-luc-vuot-17-ty-usd-d414757.html

2. Blackburn, D., Huong, V. D., Mendham, D. (2020). Returns to Vietnamese smallholder farmers from managing acacia plantations for sawn wood over 4-10 year rotations, Forest Policy and Economics, 121, 102318, doi:10.1016/j.forpol.2020.102318.

3. Cảm Lê (2017). Mô hình liên kết IKEA – sáng tạo tạo bền vững, truy cập từ https://goviet.org.vn/bai-viet/mo-hinh-lien-ket-ikea-sang-tao-tao-ben-vung-8569.

4. Dinh, H.H., Basnet, S., and Zuo, A. (2024). Impact of tree planting on household well-being: evidence from the central highlands of Vietnam, Environmental systems research, 13(1), 11.

5. Dinh, H.H., Le, L.T., and Wesseler, J. (2024). How contracted tree farmers engage in and benefit from inclusive value chains: Evidence from Vietnam, Forest Policy and Economics, 169, 103357.

6. Gỗ Việt (2025). Xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2024 và nhận định xu hướng năm 2025, truy cập từ https://goviet.org.vn/bai-viet/xuat-nhap-khau-go-va-san-pham-go-nam-2024-va-nhan-dinh-xu-huong-nam-2025-10280.

7. Maraseni, T. N., Son, H. L., Cockfield, G., Duy, H. V., Nghia, T. D. (2017). The financial benefits of forest certification: Case studies of acacia growers and a furniture company in Central Vietnam, Land Use Policy, 69, 56-63. doi:10.1016/j.landusepol.2017.09.011.

8. Midgley, S.J., Stevens, P.R., and Arnold, R.J. (2017). Hidden assets: Asia’s smallholder wood resources and their contribution to supply chains of commercial wood, Australian Forestry, 80(1),

Ngày nhận bài: 06/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 13/6/2025