Nhận diện các yếu tố ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long(*)

Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ, việc tổ chức quản lý chuỗi cung ứng ngành thủy sản cần có sự chuyển đổi để bắt kịp xu thế của thời đại kỹ thuật số.

NCS, ThS. Ngô Minh Quang

Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh

PGS, TS. Nguyễn Hoàng Phương

Học viện Chính trị Khu vực II

Tóm tắt

Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ, việc tổ chức quản lý chuỗi cung ứng ngành thủy sản cần có sự chuyển đổi để bắt kịp xu thế của thời đại kỹ thuật số. Dựa trên việc nhận diện các yếu tố ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển chuỗi cung ứng thủy sản của Vùng.

Từ khóa: Nhận diện các yếu tố, chuỗi cung ứng ngành thủy sản, Đồng bằng sông Cửu Long

Summary

Currently, with the rapid advancement of technology, the management of supply chains in the fisheries sector needs to undergo transformation to keep pace with the digital age. Based on the identification of factors affecting the fisheries supply chain in the Mekong Delta region, the study proposes several solutions to support the development of the regional fisheries supply chain.

Keywords: Identification of factors, fisheries supply chain, the Mekong Delta region

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhiều nghiên cứu cho rằng, liên kết chuỗi cung ứng là do áp lực cạnh tranh toàn cầu hoặc rủi ro do sự biến động của môi trường bao gồm: thay đổi về cung, cầu và công nghệ (Chen và Paulraj, 2004), các cơ hội từ thị trường mới (Frohlich và Westbrook, 2001). Tuy nhiên, theo các chuyên gia trong ngành thủy sản, ngoài áp lực cạnh tranh toàn cầu thì các áp lực khác cũng có sự tác động lớn đến mức độ liên kết giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng như rủi ro về nguồn cung, thị trường, thông tin và môi trường. Ngoài ra, yếu tố nội tại cũng tác động đến động lực tăng cường liên kết với đối tác trong chuỗi cung ứng, trong đó chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến mức độ hợp tác với các thành viên trong chuỗi cung ứng.

Có thế thấy, có rất nhiều yếu tố tác động đến chuỗi cũng ứng ngành thủy sản. Tuy nhiên, đâu là yếu tố chính tác động đến chuỗi cung ứng thủy sản vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến. Chính vì vậy, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm nhận diện các yếu tố chính tác động đến chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), qua đó đề xuất một số hàm ý phát triển trong thời gian tới.

NHẬN DIỆN CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH THỦY SẢN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Nguồn nhân lực

Với dân số khoảng 18 triệu người và lực lượng lao động chiếm 21,44% tổng số lực lượng lao động cả nước, song điều lo ngại và băn khoăn hiện nay ở ĐBSCL là chất lượng nguồn nhân lực trong toàn Vùng còn thấp. Cụ thể: Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25%, trong khi tỷ lệ chung cả nước 74,6%. Ðiều tra mới đây còn cho thấy, hiện chỉ có gần 20% số lao động công nghiệp vùng ÐBSCL có trình độ chuyên môn hóa và tay nghề cao; khoảng 17% số lao động có tay nghề kỹ thuật đang trực tiếp sản xuất. Cơ cấu lao động bất hợp lý, nhất là tỷ lệ giữa thầy và thợ quá chênh lệch; năng suất lao động còn thấp so với cả nước. Giai đoạn 2018-2022, năng suất lao động của vùng ĐBSCL có sự gia tăng đáng kể (+29%), tuy nhiên vẫn thấp so với cả nước (+31%). Riêng khu vực nông, lâm, thủy sản lại có mức tăng trưởng năng suất lao động thấp hơn hẳn so với cả nước. Cụ thể là giai đoạn 2018-2022, trong khi năng suất lao động ngành nông, lâm, thủy sản của cả nước tăng 139% (13,4%/năm) thì vùng ĐBSCL chỉ đạt 22% (5%/năm).

Khoa học công nghệ

Trong những năm gần đây, nhiều tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã ứng dụng công nghệ kỹ thuật số để thu thập dữ liệu và cung cấp thông tin cho người dân về xâm ngập mặn, thủy triều, giá cả thị trường… Sự phát triển và ứng dụng của công nghệ đám mây đã tạo ra mô hình nuôi trồng thủy sản thông minh (Smart Aquaculture - SA); nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS): tái sử dụng nước, kiểm soát môi trường nuôi, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường; Ứng dụng công nghệ gen: cải thiện giống thủy sản, nâng cao năng suất và khả năng kháng bệnh; Kết nối internet vạn vật (IoT), sử dụng hệ thống cảm biến quan trắc môi trường nước như hệ thống “Ryan Mekong” với 60 điểm ở các tỉnh, dữ liệu được cập nhật 15 phút/lần lên internet và mọi người có thể truy cập xem bằng điện thoại thông minh. Thực tế cho thấy, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào thủy sản đã đạt được nhiều kết quả tốt như tạo được 35 giống thủy sản; xây dựng công thức thức ăn cho một số đối tượng như cá tra, tôm hùm, ốc hương, cá biển; có 64 quy trình công nghệ về nuôi, sản xuất giống, quản lý bệnh… được công nhận.

Cơ chế chính sách

Thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và mang lại nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn và ven biển. Đồng thời, ngành thủy sản đóng góp quan trọng vào nền kinh tế, tạo việc làm, và thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: ngành thủy sản vùng ĐBSCL phát triển theo hướng hiện đại hóa, đầu tư khoa học công nghệ, nâng cấp đội tàu khai thác, đẩy mạnh khai thác vùng khơi hiệu quả. Cùng với đó, phát triển dịch vụ nuôi trồng hải sản trên biển và du lịch sinh thái biển.

Bên cạnh đó, sự phối hợp chính sách giữa các bộ, ngành Trung ương và vùng ĐBSCL được nêu trong Quyết định số 593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000 và Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề cập đến các chính sách liên quan đến phát triển con giống thủy sản, quản lý con giống thủy sản. Những chính sách này, tác động rất lớn đến ngành thủy sản vùng ĐBSCL nói chung và chuỗi cung ứng thủy sản nói riêng.

Bên cạnh những chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại tự do với các nước cũng như đàm phán về thuế chống bán phá giá. Theo đó, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), tạo cơ hội xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nói chung vào các nước thành viên. Việc thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ giảm xuống còn dưới 1% được xem là một lợi thế là một đáng kể, góp phần nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị phần của tôm Việt Nam tại thị trường này. Việc ký kết các hiệp định này tạo động lực không nhỏ trong việc phát triển nói chung và xây dựng chuỗi cung ứng thủy sản nói riêng của Vùng.

Logistics

Vùng ĐBSCL có hệ thống sông ngòi dày đặc nên có nhiều tiềm năng về phát triển vận tải đường thủy nhưng vẫn chưa được đầu tư khai thác đúng mức. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nút thắt như tĩnh không cầu thấp (chiều cao hạn chế của một cây cầu so với mặt nước hoặc mặt đất, gây khó khăn cho các phương tiện giao thông thủy, như ở Măng Thít, Trà Ôn, Nàng Hai..., mật độ cao (kênh Chợ Gạo); cống đập thủy lợi ngăn cách ở các kênh mương nhỏ khiến hoạt động vận tải không thể thông suốt và ảnh hưởng đến hiệu quả chung của toàn hệ thống. Sự “manh mún” này khiến hiện nay các tàu lớn chỉ có thể di chuyển giữa khu vực TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ thông qua sông Hậu, sông Tiền và Vàm Nao, với luồng tuyến đường thủy rất dài, khoảng 260 km. Những “nút thắt” này ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng ngành thủy sản Vùng.

Sự hợp tác giữa các tổ chức

Trong những năm gần đây, Chính phủ, các cơ quan Trung ương và các tỉnh ĐBSCL đã có nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy liên kết vùng và tiểu vùng ở ĐBSCL. Liên kết vùng được thúc đẩy thông qua việc thực hiện phối hợp liên tỉnh, liên ngành trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên (cơ chế liên kết từ sáng kiến của các cơ quan Chính phủ); và liên kết theo chuỗi sản phẩm tự hình thành theo nhu cầu của thị trường, có hoặc không có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước (cơ chế liên kết do nhu cầu của thị trường). Một số công cụ liên kết vùng này được áp dụng giúp tăng cường liên kết giữa các tỉnh trong vùng ĐBSCL (liên kết nội vùng), đồng thời tăng cường liên kết giữa vùng ĐBSCL với các vùng khác trong nước (liên kết ngoại vùng), ví dụ như công cụ quy hoạch vùng, hay cơ chế liên kết vùng thí điểm theo Quyết định 593/QĐ-TTg nhằm tăng cường liên kết giữa một số tỉnh trong vùng ĐBSCL nội vùng, như các sáng kiến liên kết tiểu vùng.

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH THỦY SẢN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Về khoa học công nghệ

Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud Computing), internet vạn vật (IOT), dữ liệu lớn (big data), công nghệ in 3D và tự động quy trình robotic vào từng công đoạn của chuỗi cung ứng ngành thủy sản vùng ĐBSCL như dự báo nhu cầu thị trường, phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chất lượng và tối ưu hóa chuỗi cung ứng thủy sản để tăng hiệu quả và hiệu suất của từng công đoạn và cả chuỗi cung ứng.

Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, dự báo ngư trường, nguồn lợi, giám sát hoạt động tàu cá; công nghệ khai thác; quản lý nuôi trồng thủy sản; cơ giới hóa, tự động hóa trong khai thác; bảo quản sản phẩm sau thu hoạch; xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản.

Tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng logistics, quản lý hoạt động vận tải, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại; đẩy mạnh số hóa hệ thống cơ sở dữ liệu logistics.

Về nguồn nhân lực

Thu hút nguồn lực quốc tế trong hợp tác, đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành thủy sản. Liên kết, kết nối giữa các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động ngành thủy sản trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ngành logistics, vận tải, nhất là các chuyên gia logistics có năng lực ứng dụng và triển khai thực hành quản trị logistics và chuỗi cung ứng theo kịp các nước công nghiệp phát triển. Gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là nhân lực trong lĩnh vực chuyển đổi số, ứng dụng và phát triển công nghệ mới. Đẩy mạnh liên kết đào tạo với các tổ chức quốc tế, các quốc gia; có cơ chế đặc thù để thu hút nhân lực chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ về số lượng, chất lượng nhân lực lĩnh vực logistics.

Về logistics

Đẩy mạnh phát triển logistics vùng ĐBSCL bằng việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nhất là đường giao thông nối giữa vùng nuôi trồng thủy sản với vùng chế biến. Tăng cường liên kết vùng, tạo điều kiện thông thương hàng hóa, qua đó giúp kinh tế Vùng phát triển nhanh hơn bằng lợi thế vốn có. Trong đó, đẩy nhanh tiến độ các dự án giao thông trọng điểm, các công trình có tính lan tỏa, hoàn thiện kết nối giao thông, trước hết là hệ thống đường bộ cao tốc để tạo kết nối liên vùng, kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế, các cửa khẩu quốc tế, các đô thị. Xây dựng quy hoạch hệ thống logistics đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực cả nước, của Vùng, của địa phương; phát triển mạnh mẽ, đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia, quốc tế gắn với các đầu mối vận tải lớn như cảng hàng không, cảng biển.

Về các tổ chức tham gia chuỗi

Tăng cường liên kết giữa các bên trong chuỗi cung ứng hàng thủy sản, gồm: người nuôi trồng thủy sản - thương lái - nhà máy chế biến - doanh nghiệp thương mại - doanh nghiệp logistics. Theo đó, các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng cần liên kết với nhau và liên kết chặt chẽ với người nuôi trồng thủy sản để tạo thành quy trình khép kín trong đầu vào và đầu ra của sản phẩm, cũng như kênh phân phối. Việc liên kết này cũng giúp giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp.

Khuyến khích các thành phần chuỗi cung ứng tham gia thương mại điện tử để tăng tính minh bạch và thuận lợi trong giao dịch. Từ đó, tăng cường lòng tin và sư liên kết của các thành phần trong chuỗi cung ứng.

Về cơ chế chính sách

Thúc đẩy hệ sinh thái kinh tế số trên các lĩnh vực. Có cơ chế hợp tác công tư để phát triển hạ tầng số hiện đại, trong đó nguồn lực nhà nước là chủ yếu. Phát triển hạ tầng viễn thông, internet đáp ứng yêu cầu dự phòng, kết nối, an toàn, bền vững, hệ thống truyền dẫn dữ liệu qua vệ tinh, mạng cáp quang băng thông rộng tốc độ cao phủ sóng toàn quốc, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo.

Xây dựng các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển giao tri thức, đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics và vận tải theo hướng bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics; tập trung sửa đổi, ban hành mới chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới.

(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2023). Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2022.

2. Chen, I.J. and Paulraj, A. (2004) Towards a Theory of Supply Chain Management: The Constructs and Measurements. Journal of Operations Management, 22, 119.

3. Frohlich, M.T. and Westbrook, R. (2001) Arcs of Integration: An International Study of Supply Chain Strategies. Journal of Operations Management, 19, 185-200.

4. Nguyễn Ngọc Trung (2018). Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết chuỗi cung ứng ngành thủy sản - Nghiên cứu tại tỉnh Bến tre. Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân.

5. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

6. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định 287/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Ngày nhận bài: 25/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/8/2025; Ngày duyệt đăng: 20/8/2025