ThS. Đặng Thành Luân
Khoa Kinh tế - Quản trị, Trường Đại học Văn Hiến
NCS Trường Đại học Lạc Hồng
Email: luandt@vhu.edu.vn
Tóm tắt
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, năng lực hội nhập logistics quốc tế trở thành yếu tố then chốt quyết định vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp logistics Việt Nam. Nghiên cứu phân tích 3 trụ cột nền tảng: hạ tầng logistics, ứng dụng công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực, dựa trên dữ liệu từ Báo cáo Logistics Việt Nam 2022-2024 của Bộ Công Thương. Kết quả cho thấy sự phát triển thiếu đồng bộ giữa các trụ cột đang cản trở doanh nghiệp logistics nội địa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số định hướng chính sách nhằm nâng cao năng lực hội nhập logistics quốc tế, bao gồm: hoàn thiện thể chế tích hợp hạ tầng liên vùng, xây dựng nền tảng dữ liệu số logistics quốc gia và nâng cấp hệ sinh thái đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế.
Từ khóa: Năng lực hội nhập logistics, hạ tầng, công nghệ, nhân lực logistics, logistics quốc tế
Summary
In the context of deep economic integration, the capacity for international logistics integration has become a key determinant of the position and competitiveness of Vietnamese logistics enterprises. The study analyzes three foundational pillars: logistics infrastructure, technological application, and the quality of human resources, based on data from the Viet Nam Logistics Report 2022–2024 published by the Ministry of Industry and Trade. The findings indicate that the uneven development among these pillars hinders domestic logistics firms from deeply participating in global supply chains. Accordingly, the study proposes several policy orientations to enhance international logistics integration capacity, including: improving institutional frameworks for inter-regional infrastructure integration, developing a national digital logistics data platform, and upgrading the logistics human resource training ecosystem to meet international standards.
Keywords: Logistics integration capacity, infrastructure, technology, logistics human resources, international logistics
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn biến phức tạp và chuỗi cung ứng toàn cầu có xu hướng tái cấu trúc hậu đại dịch COVID-19, năng lực logistics đã vượt ra khỏi vai trò dịch vụ hỗ trợ để trở thành yếu tố cốt lõi trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực hội nhập quốc tế của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, ngành logistics hiện đóng góp khoảng 5% GDP và được xác định là một lĩnh vực hạ tầng chiến lược trong các quy hoạch quốc gia, có vai trò kết nối sản xuất trong nước với chuỗi cung ứng toàn cầu và tạo nền tảng cho thương mại bền vững (Bộ Công Thương, 2024).
Tuy nhiên, năng lực logistics quốc gia không đơn thuần được đo lường bằng số lượng cảng biển hay đội tàu vận tải, mà còn phụ thuộc vào mức độ phát triển đồng bộ giữa hạ tầng logistics, trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực, đây là 3 trụ cột quyết định khả năng hội nhập logistics của doanh nghiệp Việt Nam với chuẩn mực toàn cầu. Thực tiễn cho thấy, mặc dù Việt Nam đang tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, song năng lực logistics trong nước lại chưa tương xứng với kỳ vọng mở cửa thị trường. Điều này dẫn đến chi phí logistics vẫn ở mức cao (16,8% GDP - Bộ Công Thương, 2024), năng suất chuỗi cung ứng thấp và doanh nghiệp nội địa khó tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu có giá trị gia tăng cao.
Các Báo cáo Logistics Việt Nam do Bộ Công Thương công bố trong giai đoạn 2022-2024 đã phản ánh sâu sắc, nhất quán về những khoảng cách năng lực của doanh nghiệp logistics nội địa trong tiến trình hội nhập. Đến năm 2024, có 14 trung tâm logistics đi vào vận hành, chủ yếu phân bố tại các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng (Bộ Công Thương, 2024). Theo Bộ Công Thương, năm 2024, có 38,2% doanh nghiệp logistics nội địa ứng dụng các hệ thống quản lý hiện đại như TMS (hệ thống quản lý vận tải), WMS (hệ thống quản lý kho) và theo dõi vận đơn thời gian thực, trong khi tỷ lệ này ở khối doanh nghiệp FDI đạt mức 76,5%. Tỷ lệ lao động logistics có chứng chỉ quốc tế như FIATA, CILT, SCOR chỉ ở mức 6,4% năm 2024. Những số liệu này cho thấy 3 trụ cột nền tảng đang phát triển thiếu đồng đều và chưa tạo thành hệ sinh thái logistics tích hợp, đồng bộ. Điều này đang cản trở các doanh nghiệp logistics nội địa gia tăng năng lực hội nhập và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng quốc tế có giá trị gia tăng cao.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP LOGISTICS QUỐC TẾ
Năng lực hội nhập logistics quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam phân tích theo 3 trụ cột gồm: hạ tầng logistics, trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực đang tồn tại những rào cản, cản trở tiến trình hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hạ tầng logistics
Theo Bộ Công Thương, năm 2022 chỉ có 8 trung tâm logistics hoạt động, tăng lên 10 trung tâm vào năm 2023 và đạt 14 trung tâm vào năm 2024. Tuy nhiên, phần lớn các trung tâm này tập trung tại các vùng kinh tế phát triển như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, trong khi các vùng nông nghiệp chiến lược như Đồng bằng sông Cửu Long hay Tây Nguyên vẫn thiếu nghiêm trọng các trung tâm phân phối, cảng cạn (ICD) và tuyến logistics chuyên biệt.
Ngoài ra, tỷ lệ sử dụng vận tải đa phương thức liên tục ở mức rất thấp, chỉ 2,6% trong năm 2022 và 2,9% trong năm 2023 (Bộ Công Thương, 2023), gần như không tăng vào năm 2024 với mức dưới 3% (Bộ Công Thương, 2024). Điều này cho thấy năng lực tích hợp vận tải ở Việt Nam còn hạn chế.
Chênh lệch hạ tầng giữa các vùng cũng phản ánh rõ qua chỉ số năng lực cạnh tranh logistics (LCI). TP. Hồ Chí Minh duy trì mức cao nhất: năm 2022 đạt 92,1 điểm, năm 2023 đạt 93,3 điểm, năm 2024 đạt 94,58 điểm, trong khi các địa phương như Đắk Lắk hay Sóc Trăng chỉ đạt dưới 45 điểm trong 3 năm (Bộ Công Thương, 2024). Khoảng cách này kéo theo hệ lụy chi phí logistics cao, khó tiếp cận dịch vụ quốc tế và giảm năng lực cạnh tranh vùng.
Trình độ công nghệ
Mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn thấp và chậm cải thiện. Năm 2022 chỉ 31% doanh nghiệp ứng dụng TMS, WMS hoặc phần mềm theo dõi vận tải (Bộ Công Thương, 2022), con số này tăng lên 35% năm 2023 (Bộ Công Thương, 2023) và 38,2% năm 2024 (Bộ Công Thương, 2024). Trong khi đó, nhóm doanh nghiệp FDI từ mức 70% năm 2022 tăng lên 76,5% năm 2024 (Bộ Công Thương, 2024). Những con số này cho thấy khoảng cách chuyển đổi số giữa doanh nghiệp logistics nội địa và khối doanh nghiệp FDI ngày càng lớn.
Chỉ một số ít doanh nghiệp lớn như Gemadept hay TBS Logistics mới bước đầu thử nghiệm ứng dụng các công nghệ hiện đại như Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (Blockchain) và trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động vận hành và quản lý logistics, nhưng mức độ triển khai còn hạn chế và chưa tạo thành xu hướng phổ biến. Báo cáo năm 2023 của Bộ Công Thương ghi nhận tốc độ ứng dụng công nghệ chỉ tăng 3-4% mỗi năm, cho thấy sự chững lại rõ rệt trong đầu tư chuyển đổi số của các doanh nghiệp lĩnh vực này. Nguyên nhân chính đến từ thiếu chiến lược số hóa, chi phí đầu tư cao và thiếu nguồn lực nội bộ chuyên trách.
Nguồn nhân lực
Theo Báo cáo năm 2024 của Bộ Công Thương, tỷ lệ lao động logistics có chứng chỉ quốc tế như FIATA, CILT, SCOR vẫn dưới 7% trong 3 năm (2022-2024). Báo cáo này nhấn mạnh thực trạng thiếu hụt kỹ năng công nghệ, ngoại ngữ và hiểu biết pháp lý quốc tế, đặc biệt ở nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Hơn 60% doanh nghiệp khảo sát trong năm 2023 và 2024 đều đánh giá chất lượng nhân lực logistics chưa đáp ứng thực tế vận hành.
Mặc dù cả nước đã có hơn 60 cơ sở đào tạo logistics nhưng chương trình còn thiếu gắn kết thực tiễn, chưa tích hợp tiêu chuẩn quốc tế, dẫn đến việc sinh viên thiếu kỹ năng số, kỹ năng làm việc nhóm và tư duy hệ thống khi ra trường.
Tóm lại, phân tích dữ liệu giai đoạn 2022-2024 cho thấy năng lực hội nhập logistics quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về chiều rộng và chiều sâu, 3 trụ cột cốt lõi: hạ tầng, công nghệ và nguồn nhân lực, đang phát triển rời rạc, thiếu sự tích hợp giữa vùng, ngành và thị trường, chưa hình thành được một hệ sinh thái logistics đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu hội nhập bền vững.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GÓC NHÌN CHÍNH SÁCH
Qua phân tích thực trạng 3 trụ cột năng lực hội nhập logistics cho thấy các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang bước vào tiến trình hội nhập quốc tế trong trạng thái “lệch tầng phát triển”, tức là các trụ cột có tốc độ và mức độ phát triển không đồng đều, thiếu tính tích hợp và chưa được hậu thuẫn bởi một nền tảng chính sách đủ mạnh.
Thứ nhất, bất cập về quy hoạch và tích hợp hạ tầng. Theo Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, cả nước mới có 8 trung tâm logistics được đưa vào vận hành, thấp hơn nhiều so với con số 34 trung tâm được quy hoạch đến năm 2025. Đến năm 2023 và 2024, số trung tâm hoạt động tăng lên lần lượt là 10 và 14, nhưng vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng về chất lượng và khả năng tích hợp vùng miền. Đáng chú ý, tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - vùng trọng điểm xuất khẩu nông sản, hiện chỉ có 1 trung tâm logistics đang vận hành, gây áp lực lớn lên chi phí logistics, đặc biệt trong khâu vận tải gom hàng và lưu trữ lạnh. Hệ quả là chi phí logistics vẫn ở mức cao, chiếm 16,8% GDP, trong khi mức trung bình tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương chỉ khoảng 12-14% (Bộ Công Thương, 2024).
Bên cạnh đó, tỷ lệ hàng hóa nội địa sử dụng vận tải đa phương thức chỉ chiếm khoảng 2,8%, rất thấp so với Thái Lan (6,5%) và Malaysia (8,2%). Điều này phản ánh sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch cảng biển, ICD và hạ tầng hậu cần nội vùng, dẫn đến “điểm nghẽn hội nhập”, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đòi hỏi năng lực kết nối xuyên biên giới.
Thứ hai, khoảng cách chuyển đổi số giữa doanh nghiệp nội địa và FDI ngày càng nới rộng. Báo cáo năm 2022 cho thấy chỉ khoảng 32% doanh nghiệp logistics Việt Nam ứng dụng hệ thống TMS, WMS hoặc hệ thống theo dõi hành trình hàng hóa theo thời gian thực. Tỷ lệ này cải thiện lên 38,2% vào năm 2024, nhưng vẫn còn khoảng cách đáng kể so với khối doanh nghiệp FDI với tỷ lệ đạt 76,5% (Bộ Công Thương, 2024). Các công nghệ tiên tiến như IoT, Blockchain, AI dự báo nhu cầu vẫn chưa được triển khai rộng rãi, đặc biệt trong khối doanh nghiệp nhỏ và vừa - vốn chiếm gần 90% thị phần, do hạn chế về tài chính và nhân lực triển khai.
Mặc dù Đề án phát triển trung tâm dữ liệu logistics quốc gia (National Logistics Data Hub) đã được đề cập từ năm 2022 nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai, dẫn đến tình trạng dữ liệu logistics bị phân mảnh theo địa phương và ngành hàng. Việc thiếu nền tảng dữ liệu dùng chung không chỉ cản trở ra quyết định điều phối hiệu quả theo vùng, mà còn làm suy giảm khả năng minh bạch - yếu tố then chốt để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ ba, nhân lực logistics chưa đạt chuẩn hội nhập, gây cản trở từ bên trong. Theo báo cáo năm 2022 của Bộ Công Thương, chỉ 5,7% nhân lực logistics có chứng chỉ quốc tế như FIATA, SCOR, CILT. Mặc dù tỷ lệ này tăng lên 6,4% vào năm 2024 (Bộ Công Thương, 2024), nhưng vẫn rất thấp so với yêu cầu thực tế. Hơn 60% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng người lao động không đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng sử dụng phần mềm logistics, ngoại ngữ chuyên ngành và hiểu biết tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Việc thiếu kỹ năng giao tiếp xuyên biên giới và khả năng phân tích dữ liệu đang khiến nhiều doanh nghiệp trong nước “tự loại mình” khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, hệ thống đào tạo logistics tuy phát triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng phân tán và thiếu định hướng hội nhập quốc tế. Năm 2023 ghi nhận cả nước có hơn 60 trường đại học và cao đẳng đào tạo ngành hoặc chuyên ngành liên quan đến logistics. Tuy nhiên, đến năm 2024, chỉ khoảng 11% chương trình của các trường có tích hợp các học phần thực hành thực tế hoặc sử dụng phần mềm chuyên ngành - yếu tố then chốt để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số trong ngành (Bộ Công Thương, 2024). Đặc biệt, mô hình đào tạo liên kết 3 bên (Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp) vẫn chưa được thể chế hóa thành chính sách quốc gia, dẫn đến tình trạng mất kết nối giữa đào tạo và thực tiễn sử dụng lao động. Điều này khiến cho nguồn nhân lực logistics Việt Nam tiếp tục rơi vào trạng thái “thừa nhưng vẫn thiếu” - số lượng đông nhưng thiếu kỹ năng hội nhập và tư duy toàn cầu hóa.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Việt Nam đang đứng trước thời điểm then chốt của quá trình hội nhập logistics quốc tế. Mặc dù có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận từ phía Nhà nước và doanh nghiệp, nhưng năng lực hội nhập logistics của doanh nghiệp trong nước vẫn còn nhiều điểm nghẽn, thể hiện rõ ở sự thiếu đồng bộ trong quy hoạch hạ tầng, khoảng cách số hóa giữa doanh nghiệp nội địa và FDI, cũng như hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực.
Chi phí logistics hiện vẫn duy trì ở mức cao, tỷ lệ ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp logistics nội địa chỉ bằng một nửa doanh nghiệp FDI, tỷ lệ nhân lực logistics có chứng chỉ quốc tế ở mức thấp là minh chứng rõ rệt cho khoảng cách hội nhập còn rất xa của doanh nghiệp nội địa (Bộ Công Thương, 2024). Nếu không có sự điều chỉnh chính sách và đầu tư chiến lược, nguy cơ tụt lại phía sau trong tiến trình hội nhập logistics là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Từ các phân tích trên, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm nâng cao năng lực hội nhập logistics quốc tế cho doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Một là, hoàn thiện quy hoạch và thể chế hóa hành lang logistics liên vùng. Cần rà soát lại các trung tâm logistics đã quy hoạch, ưu tiên triển khai theo trục hành lang Bắc - Nam, kết nối với cảng biển, ICD, vùng nguyên liệu và trung tâm tiêu dùng. Nhà nước cần đóng vai trò định hướng tích hợp đa phương thức (đường bộ - đường thủy - đường sắt), đặc biệt là tại các vùng xuất khẩu nông sản trọng điểm như Đồng bằng sông Cửu Long.
Hai là, ban hành chính sách quốc gia về chuyển đổi số trong logistics. Đề án Trung tâm dữ liệu logistics quốc gia cần sớm được triển khai, xây dựng nền tảng dữ liệu mở kết nối doanh nghiệp - cơ quan quản lý - khách hàng. Đồng thời, có chính sách tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận hệ thống công nghệ TMS, WMS, AI dự báo nhu cầu và Blockchain truy xuất nguồn gốc.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với chuẩn quốc tế. Nhà nước cần thiết phải ban hành khung tiêu chuẩn kỹ năng logistics quốc gia (National Logistics Skill Framework), đồng thời thúc đẩy mô hình liên kết 3 bên: Nhà trường - doanh nghiệp - Nhà nước trong đào tạo nguồn nhân lực. Khuyến khích xây dựng các trung tâm thực hành logistics tại trường đại học, tích hợp học phần phần mềm chuyên ngành và hợp tác quốc tế trong việc đào tạo kỹ năng logistics xuyên biên giới.
Bốn là, thiết lập bộ chỉ số năng lực logistics quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam. Việc xây dựng một bộ chỉ số đánh giá mức độ hội nhập logistics (gồm hạ tầng kết nối, số hóa quy trình, kỹ năng nhân lực, khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu...) sẽ giúp đo lường sự tiến bộ và định hướng chính sách sát thực tiễn hơn.
KẾT LUẬN
Năng lực hội nhập logistics quốc tế không chỉ là điều kiện cần để doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mà còn là đòn bẩy để nâng cao uy tín, vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, các số liệu từ báo cáo logistics quốc gia giai đoạn 2022-2024 cho thấy rõ sự thiếu đồng bộ trong phát triển hạ tầng, chậm trễ trong chuyển đổi số và chất lượng nhân lực chưa đạt chuẩn quốc tế. Những điểm nghẽn này không chỉ làm tăng chi phí logistics, mà còn cản trở năng lực kết nối, đàm phán và cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa so với doanh nghiệp FDI.
Vì vậy, việc tăng cường năng lực hội nhập logistics cần được nhìn nhận như một chiến lược quốc gia, thay vì là nỗ lực riêng lẻ của từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự đồng hành giữa Nhà nước - doanh nghiệp - hệ thống giáo dục trong việc đầu tư hạ tầng liên kết vùng, chuẩn hóa đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế và thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong toàn ngành. Chỉ khi 3 trụ cột này phát triển đồng bộ, logistics Việt Nam mới có thể chuyển mình từ vai trò hỗ trợ sang vai trò dẫn dắt trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
Bộ Công Thương (2022). Báo cáo Logistics Việt Nam 2022 - Phát triển dịch vụ logistics trong bối cảnh mới. Hà Nội, Nxb Công Thương.
Bộ Công Thương (2023). Báo cáo Logistics Việt Nam 2023 - Nâng cao năng lực cạnh tranh. Hà Nội, Nxb Công Thương.
Bộ Công Thương (2024). Báo cáo Logistics Việt Nam 2024 - Khu thương mại tự do. Hà Nội, Nxb Công Thương.
Ngày nhận bài: 28/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/8/2025; Ngày duyệt đăng: 20/8/2025 |