Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng trong bối cảnh hiện nay

Nghiên cứu phân tích, làm rõ những điểm chưa phù hợp và kiến nghị những giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng trong bối cảnh hiện nay.

ThS. Nguyễn Giang Trường

Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế

Tóm tắt

Hiện nay, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đang ngày càng phổ biến và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam đã có nhiều sự thay đổi thông qua một số văn bản như: Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, Thông tư 61/2024/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng… tạo nên hành lang pháp lý vững chắc đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn tồn tại một số bất cập, thiếu đồng bộ và chưa theo kịp sự phát triển của thị trường tài chính. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động bảo lãnh ngân hàng và gây rủi ro cho cả tổ chức tín dụng và khách hàng. Trên cơ sở đó, tác giả sẽ phân tích, làm rõ những điểm chưa phù hợp và kiến nghị những giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về vấn đề này.

Từ khóa: Bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng, giải pháp hoàn thiện pháp luật

Summary

Currently, bank guarantee activities are becoming increasingly prevalent and play a crucial role in the economy, especially within the context of global economic integration. In Vietnam, the legal framework governing bank guarantees has undergone significant changes, notably through legislative instruments such as the Law on Credit Institutions 2024 and Circular No. 61/2024/TT-NHNN on bank guarantees. These instruments have established a robust legal corridor to safeguard the rights and interests of parties involved in bank guarantee transactions. However, practical implementation has revealed several shortcomings, including inconsistencies, lack of synchronization, and the legal framework’s inability to keep pace with the development of the financial market. These limitations hinder the effectiveness of bank guarantee operations and expose both credit institutions and their clients to legal and financial risks. Based on this reality, the author analyzes and clarifies the existing legal inadequacies and proposes remedial measures aimed at completing the legal framework governing bank guarantees in Vietnam.

Keywords: Bank guarantee, credit institution, solutions to complete legal framework

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động ngân hàng đã và đang khẳng định vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhất là trong điều kiện kinh tế mở và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Trong hoạt động ngân hàng, dịch vụ bảo lãnh là một dịch vụ hiện đại và đem lại cho ngân hàng những lợi nhuận đáng kể. Bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh, không chỉ trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong lĩnh vực dự thầu, thực hiện hợp đồng...

Tuy nhiên, pháp luật về bảo lãnh ngân hàng hiện nay còn ẩn chứa những rủi ro và nhiều hạn chế. Chính vì thế, hệ thống quy phạm pháp luật đang ngày càng hoàn thiện để củng cố và nâng cao nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Bài nghiên cứu này sẽ làm rõ một số vấn đề liên quan đến bảo lãnh ngân hàng, thực trạng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay.

KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

Khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng hiện đại ngày nay, bảo lãnh được xem là hoạt động kinh doanh phổ biến. Quan hệ bảo lãnh mà chủ thể đứng ra cung ứng dịch vụ bảo lãnh là các tổ chức tín dụng được gọi là bảo lãnh ngân hàng.

Theo quy định tại Khoản 2 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 thì “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng cho khách hàng thông qua việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên có nghĩa vụ khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ bắt buộc và hoàn trả cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo thỏa thuận.”

Bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động kinh doanh hiện nay ví như “giấy thông hành” cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Đối với các nhà kinh doanh, bảo lãnh ngân hàng được xem là một công cụ mà các nhà kinh doanh thường sử dụng để tăng cường sự đảm bảo đối với nghĩa vụ trong các hợp đồng kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh môi trường kinh doanh có rủi ro cao như hiện nay.

Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Thứ nhất, về bản chất pháp lý, bảo lãnh ngân hàng là loại giao dịch thương mại (hay hành vi thương mại) đặc thù. Tính chất này thể hiện ở chỗ hoạt động bảo lãnh này vừa do các tổ chức tín dụng thực hiện trên thị thường nhằm mục đích thu lợi nhuận, vừa có tính chất chuyên nghiệp như một nghề nghiệp kinh doanh.

Thứ hai, việc quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng cũng không giống hoàn toàn với quyền và nghĩa vụ của người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Thứ ba, căn cứ vào cấu trúc chủ thể ký kết và thực hiện hợp đồng, sẽ tồn tại hai loại quan hệ hợp đồng, là quan hệ hợp đồng bảo lãnh ngân hàng (hợp đồng cam kết bảo lãnh) và quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng.

Thứ tư, tính độc lập giữa hai loại hợp đồng này thể hiện ở chỗ hợp đồng này vô hiệu không thể đương nhiên làm cho hợp đồng kia vô hiệu và ngược lại. Mặt khác, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng này không thể bị phụ thuộc hay chi phối bởi việc thực thi quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kia và ngược lại.

Thứ năm, giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải giao dịch hai bên hay ba bên mà là giao dịch kép. Để đạt được mục đích và động cơ chủ yếu của mình là phát hành cam kết bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và gửi cho bên có quyền bên nhận bảo lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ (phí bảo lãnh), thì tổ chức tín dụng không thể không tiến hành kí cả hai loại hợp đồng theo thứ tự: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo lãnh được giao kết sau.

Thứ sáu, theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể đơn phương hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh.

Thứ bảy, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ. Tính chất chứng từ được thể hiện ở chỗ khi tổ chức tín dụng phát hành cam kết bảo lãnh cũng như khi người nhận bảo lãnh thực hiện quyền yêu cầu hay khi tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, các chủ thể này bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản.

Thứ tám, bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh vô điều kiện (hay còn gọi là bảo lãnh độc lập). Tổ chức tín dụng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với người nhận bảo lãnh ngay sau khi người này đã xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung của thư bảo lãnh hay cam kết bảo lãnh do tổ chức tín dụng phát hành mà không phụ thuộc vào việc người được bảo lãnh có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ hay không.

Chức năng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh trước hết là một biện pháp bảo đảm

Bộ luật Dân sự 2015 quy định bảo lãnh là 1 trong số 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đây là chức năng trước hết và quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Ngân hàng, thông qua việc cam kết chi trả khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ, đã tạo ra sự bảo đảm cho bên nhận bảo lãnh, trong trường hợp bên bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ, bảo lãnh là công cụ bù đắp tổn thất do đối tác gây ra. Đặc biệt trong quan hệ thương mại quốc tế, sự đảm bảo của các ngân hàng ở các quốc gia khác nhau đã thiết lập quan hệ đại lý gần như là yêu cầu bắt buộc của hầu hết các giao dịch.

Bảo lãnh là một công cụ tài trợ

Bởi vì, trong nhiều trường hợp bảo lãnh thay cho khoản tiền đặt cọc (bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán...) hoặc tiền giữ lại (bảo lãnh bảo hành). Do đó mặc dù là một hoạt động ngoại bảng, không phải là tài sản có của ngân hàng, tuy nhiên thông qua bảo lãnh, khách hàng được hưởng lợi về ngân quỹ tương tự như khi vay vốn: không phải xuất quỹ thanh toán cho tiền cọc hoặc bị giữ lại tiền mà chỉ phải chi trả khoản phí bảo lãnh, được sử dụng khoản tiền tương ứng.

Bảo lãnh thực hiện chức năng đôn đốc các bên thực hiện nghĩa vụ hợp đồng

Bảo lãnh là công cụ tài trợ có tính chất hoàn trả, khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ với ngân hàng trong trường hợp ngân hàng thanh toán tiền bảo lãnh bên cạnh việc mất các quyền lợi được hưởng theo hợp đồng cơ sở. Vì vậy, bảo lãnh sẽ tạo áp lực đối với bên được bảo lãnh trong việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng, và thông qua đó chức năng đôn đốc thực hiện hợp đồng được thể hiện.

Trong suốt thời hạn bảo lãnh còn hiệu lực, bên nhận bảo lãnh luôn có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi phạm các cam kết theo các điều khoản điều kiện bảo lãnh. Bên được bảo lãnh luôn đứng trước áp lực của việc phải bồi hoàn bảo lãnh trong suốt thời hạn bảo lãnh; đồng thời bên nhận bảo lãnh hầu như luôn mong muốn bên được bảo lãnh thực hiện hợp đồng cơ sở để hạn chế việc hợp đồng bị dở dang, họ coi bảo lãnh là biện pháp cuối cùng giảm thiểu thiệt hại chứ không phải mong muốn đầu tiên.

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Một số kết quả đạt được

Hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, hỗ trợ hoạt động tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ thống tài chính. Cụ thể:

Thứ nhất, tính minh bạch và đồng bộ pháp lý: Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 cùng các văn bản hướng dẫn như Thông tư số 11/2022/TT-NHNN và Thông tư số 61/2024/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước đã xác lập một cơ sở pháp lý rõ ràng, quy định đầy đủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các bên trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng. Điều này góp phần hạn chế rủi ro pháp lý và nâng cao niềm tin vào hệ thống tài chính - ngân hàng.

Thứ hai, tăng cường hội nhập quốc tế: Quy định cho phép các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia bảo lãnh đối ứng và xác nhận bảo lãnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận vốn quốc tế với chi phí hợp lý hơn, đồng thời nâng cao uy tín trong các giao dịch thương mại xuyên biên giới.

Thứ ba, khuyến khích chuyển đổi số: Việc từng bước ứng dụng công nghệ trong quy trình bảo lãnh, bao gồm sử dụng chứng từ điện tử, đã góp phần rút ngắn thời gian xử lý, nâng cao hiệu quả hoạt động và tiết giảm chi phí cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.

Thứ tư, mở rộng đối tượng và phạm vi bảo lãnh: Pháp luật hiện hành từng bước điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đầu tư và các dự án hạ tầng quy mô lớn.

Một số điểm bất cập

Mặc dù đã có nhiều cải tiến, hệ thống pháp luật về bảo lãnh ngân hàng vẫn bộc lộ một số bất cập, có thể ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước:

Thứ nhất, tính cứng nhắc và chậm thích ứng: Nhiều hình thức bảo lãnh mới chưa được quy định rõ trong hệ thống pháp luật, dẫn đến lúng túng trong triển khai thực tiễn và làm hạn chế khả năng đổi mới sản phẩm tài chính.

Thứ hai, thủ tục hành chính phức tạp: Quy trình bảo lãnh vẫn còn rườm rà, yêu cầu nhiều hồ sơ, điều kiện khắt khe; điều này làm gia tăng chi phí giao dịch và kéo dài thời gian tiếp cận vốn.

Thứ ba, hạn chế tiếp cận của doanh nghiệp nhỏ: Yêu cầu về tài sản bảo đảm hoặc hồ sơ tín dụng chặt chẽ khiến nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận dịch vụ bảo lãnh, qua đó làm giảm tính bao trùm tài chính.

Thứ tư, thiếu quy định chi tiết về giải quyết tranh chấp: Cơ chế xử lý tranh chấp trong các hợp đồng bảo lãnh còn thiếu rõ ràng, dễ dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.

Thứ năm, ứng dụng công nghệ chưa đồng bộ: Việc triển khai bảo lãnh điện tử còn gặp nhiều trở ngại do chưa có hành lang pháp lý cụ thể và thiếu sự đầu tư hạ tầng công nghệ tương thích.

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Về chủ thể thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Quy định cụ thể các điều kiện cấp phép thực hiện hoạt động BLNH. Hoạt động BLNH mang tính đặc thù đòi hỏi chủ thể thực hiện hoạt động này phải có uy tín và khả năng tài chính. Vì thế, chủ thể thực hiện hoạt động BLNH phải là các chủ thể chuyên nghiệp thực hiện hoạt động BLNH với tư cách là hoạt động kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Pháp luật hiện hành ở Việt Nam quy định chủ thể thực hiện hoạt động BLNH phải là các TCTD. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong hoạt động BLNH, hạn chế cơ chế "xin - cho" trong việc cấp phép thực hiện hoạt động BLNH, pháp luật cần quy định cụ thể các điều kiện được cấp phép trong từng trường hợp cụ thể: chỉ thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia hay được thực hiện cả ngoài lãnh thổ quốc gia, được thực hiện đối với đối tượng là người cư trú, hay cả người cư trú và người không cư trú.

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo lãnh ngân hàng

Hệ thống hóa các quy định mà TCTD phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hoạt động BLNH. Do các quy định về phạm vi, đối tượng bảo lãnh, giới hạn cấp bảo lãnh mà TCTD phải tuân thủ khi thực hiện cấp bảo lãnh cho khách hàng còn thiếu và nằm rải rác tại nhiều văn bản khác nhau nên gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Do đó, pháp luật cần hệ thống hóa các quy định này trong một văn bản duy nhất để tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.

Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các quy định pháp luật về bảo lãnh ngân hàng đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, hiệu quả, có giá trị lâu dài. Đề xuất các giải pháp cụ thể để sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các quy định liên quan đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Các giải pháp này cần phải phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan và tạo ra môi trường pháp lý ổn định, minh bạch.

Bên cạnh đó, cần xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết: Ban hành các thông tư, quy định hướng dẫn cụ thể về quy trình cấp bảo lãnh, thẩm định, phát hành và thanh toán bảo lãnh; Quy định rõ ràng về hồ sơ, thủ tục và điều kiện cấp bảo lãnh nhằm đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ. Hoàn thiện trình tự, thủ tục bảo lãnh ngân hàng và giải tỏa bảo lãnh.

Pháp luật cho phép các tổ chức tín dụng căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để tự quy định trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng phù hợp với tổ chức tín dụng của mình. Chính vì thế các tổ chức tín dụng cần phải thiết lập một cách đơn giản, ngắn gọn giúp cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận được với bảo lãnh ngân hàng để mang lại hiệu quả tốt nhất từ nghiệp vụ bảo lãnh.

Hoàn thiện về loại hình, mở rộng phạm vi bảo lãnh

Hiện nay, hoạt động bảo lãnh tập trung chủ yếu vào một số ngân hàng quốc doanh. Chính vì thế chúng ta cần phải tập trung vào việc cải thiện hoạt động bảo lãnh tại các ngân hàng khác như ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài bằng các hình thức như:

- Đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh. Khích lệ phát triển các loại hình bảo lãnh mới phù hợp với nhu cầu của thị trường. Tăng cường hợp tác giữa các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài để chia sẻ thêm về kinh nghiệm cũng như là về công nghệ.

- Tăng cường quảng bá và mở rộng thị trường. Phát triển các chiến lược quảng cáo, truyền thông, tiếp thị nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các dịch vụ bảo lãnh. Mở rộng dịch vụ bảo lãnh đến các khách hàng tiềm năng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như tăng cường hợp tác giữa ngân hàng trong nước và các tổ chức tài chính quốc tế để mở rộng dịch vụ bảo lãnh.

- Đề xuất thay đổi quy định về hạn mức bảo lãnh. Sửa đổi quy định để các tổ chức tín dụng có thể bảo lãnh nhiều hơn mức 15% vốn tự có khi các hợp đồng có giá trị lớn, dựa trên sự đánh giá cẩn trọng về rủi ro.

Giải pháp để hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng

Quy định hiện tại chỉ tập trung vào quyền và nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh và khách hàng trong hợp đồng bảo lãnh nhưng thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi phát sinh yêu cầu từ bên nhận bảo lãnh. Chính vì lý do đó cần đề xuất ban hành chi tiết quy định về trách nhiệm bảo lãnh, ban hành chi tiết về nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh đưa ra các yêu cầu hợp lệ.

Cụ thể hóa các điều kiện bắt buộc để ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tránh tình trạng ngân hàng từ chối thực hiện nghĩa vụ mà không có lý do chính đáng. Xây dựng cơ chế khiếu nại và giải quyết tranh chấp khi xảy ra tranh chấp giữa các bên. Cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành hướng dẫn chi tiết về quy trình khiếu nại và cho phép bên nhận bảo lãnh được quyền khiếu nại hoặc yêu cầu xem xét lại khi ngân hàng bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh như đã cam kết, nhằm đảm bảo quyền lợi của bên nhận bảo lãnh để được xử lý kịp thời và minh bạch.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh kinh tế hội nhập và phát triển không ngừng, việc xây dựng một hệ thống pháp luật bảo lãnh ngân hàng chặt chẽ, linh hoạt và phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng Việt Nam; đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường tài chính - ngân hàng và nền kinh tế nói chung. Nhìn chung, để nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp trong việc thực thi và tuân thủ pháp luật. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường tài chính; đồng thời đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia, từ đó tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch và ổn định hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngân hàng Nhà nước (2024). Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30/9/2022 quy định về bảo lãnh ngân hàng.

2. Ngân hàng Nhà nước (2024). Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30/9/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng.

3. Ngân hàng Nhà nước (2024). Thông tư số 61/2024/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng.

4. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Quốc hội (2024). Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

6. Quốc hội (2020). Luật Đầu tư năm 2020.

Ngày nhận bài: 10/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập 20/6/2025; Ngày duyệt đăng: 24/6/2025.