NCS. Cao Văn Tùng, TS. Phan Thị Ngàn
Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
PGS, TS. Nguyễn Hoàng Phương
Học viện Chính trị Khu vực II
Tóm tắt
Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh tại TP. Hồ Chí Minh, nhu cầu về các loại hình du lịch mới, thân thiện môi trường ngày càng tăng. Nghiên cứu tập trung vào phát triển mô hình du lịch nông nghiệp đô thị gắn với sản phẩm OCOP. Trên cơ sở tích hợp Lý thuyết Hệ thống và Lý thuyết Chuỗi giá trị, nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu gồm các yếu tố: Hạ tầng du lịch, Dịch vụ và sản phẩm du lịch, Sự tham gia cộng đồng, Chính sách và quản lý tác động tới Phát triển du lịch nông nghiệp đô thị bền vững thông qua biến trung gian là Hiệu quả chuỗi giá trị OCOP.
Từ khóa: Du lịch nông nghiệp đô thị, sản phẩm OCOP, chuỗi giá trị, lý thuyết hệ thống, TP. Hồ Chí Minh
Summary
Amid rapid urbanization in Ho Chi Minh City, there is a growing demand for new and environmentally friendly forms of tourism. This study focuses on developing an urban agricultural tourism model linked with OCOP products. Based on the integration of Systems Theory and Value Chain Theory, the research proposes a model including the following factors: Tourism infrastructure, Tourism services and products, Community participation, and Policy and management, which influence sustainable urban agricultural tourism development through the mediating variable of OCOP value chain effectiveness.
Keywords: Urban agricultural tourism, OCOP products, value chain, systems theory, Ho Chi Minh City
GIỚI THIỆU
Khác với du lịch nông nghiệp truyền thống, du lịch nông nghiệp đô thị (DLNNĐT) không chỉ mang tính tham quan mà còn cho phép du khách tham gia sản xuất, tìm hiểu tri thức bản địa và tiêu dùng sản phẩm xanh ngay trong đô thị. Dù dựa trên quỹ đất hạn chế, loại hình này có lợi thế nhờ hạ tầng hiện đại và thị trường lớn. Khi gắn với chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), DLNNĐT tạo ra giá trị gia tăng rõ rệt: sản phẩm OCOP được chuẩn hóa trở thành điểm nhấn trong trải nghiệm, góp phần hình thành chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ.
Tuy nhiên, tại TP. Hồ Chí Minh các mô hình DLNNĐT hiện còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết và chưa khai thác hết tiềm năng OCOP. Nghiên cứu học thuật cũng còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở bối cảnh nông thôn, chưa phản ánh đặc thù đô thị lớn. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng khung lý thuyết và mô hình phát triển phù hợp cho TP. Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này hướng đến việc đề xuất mô hình DLNNĐT gắn với OCOP, vừa hệ thống hóa cơ sở lý luận, vừa cung cấp luận cứ thực tiễn cho hoạch định chính sách và quản trị chuỗi giá trị bền vững.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Một số khái niệm
FAO - Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc định nghĩa, nông nghiệp đô thị và nông nghiệp ven đô là việc trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và phân phối lương thực, thực phẩm trong và xung quanh các khu đô thị, sử dụng nguồn lực đô thị như đất, nước, chất thải hữu cơ, lao động và dịch vụ đô thị, ven đô (PAO Rikolto và RUAF, 2022).
Theo Barbieri và cộng sự (2008), du lịch nông nghiệp là một hoạt động được phát triển ở nông trang với mục đích thu hút khách là du lịch nông nghiệp. Nghiên cứu của Anthopoulou và Melissourgos (2012) đã chỉ ra 4 vấn đề mấu chốt để định nghĩa về du lịch nông nghiệp như “một sản phẩm” (các loại hình lưu trú, hoạt động, sản xuất, trải nghiệm); quy mô và cơ cấu kinh doanh (hoạt động quy mô nhỏ tập trung, hợp tác xã gia đình hay cấu trúc cộng đồng); các bên liên quan (cộng đồng địa phương, chính quyền) và tác động đến cộng đồng nông thôn. Như vậy, du lịch nông nghiệp là một hình thức du lịch dựa trên kinh tế nông nghiệp nhằm tạo ra những giá trị du lịch thông qua hệ thống nông nghiệp địa phương.
Theo Nguyễn Văn Lưu (2024), du lịch nông nghiệp là loại hình du lịch được xây dựng, tổ chức dựa trên hoạt động sản xuất nông nghiệp, gắn với điều kiện tự nhiên ở vùng nông thôn hoặc du lịch cộng đồng do gắn với tập quán sinh sống, sản xuất của một cộng đồng cư dân ở một địa bàn nông thôn cụ thể. Loại hình du lịch nông nghiệp gắn với xây dựng tour/tuyến/địa điểm để cung cấp một sản phẩm phục vụ du khách, chủ yếu dựa trên nền tảng sinh hoạt truyền thống của cư dân và hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ. Cụ thể, khách du lịch đến một điểm đến du lịch nông nghiệp có thể được tham quan, tìm hiểu và cùng người dân địa phương lao động, sản xuất nông nghiệp như: trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến nông sản…
Zhou Xiaofang (2002) định nghĩa, du lịch nông nghiệp đô thị là một hình thức kinh doanh mới, ra đời từ sự kết hợp giữa nông nghiệp đô thị và ngành du lịch hiện đại. Nó khai thác các nguồn tài nguyên của nông nghiệp đô thị (như đất đai, sản phẩm, cảnh quan, văn hóa nông nghiệp) và biến chúng thành các sản phẩm du lịch (như tham quan, giải trí, giáo dục, trải nghiệm).
Chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” (One Village One Product - OVOP) hay “Mỗi xã một sản phẩm” (One Commune One Product - OCOP) đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách như một chiến lược phát triển kinh tế nông thôn (Igusa, 2006). Khái niệm OVOP khởi nguồn từ tỉnh Oita, Nhật Bản vào năm 1979, bởi Morihiko Hiramatsu, một ý tưởng cho chính sách phát triển khu vực. Mục tiêu ban đầu về OVOP là để khuyến khích cộng đồng địa phương ở Oita lựa chọn và sản xuất những sản phẩm đặc trưng có giá trị gia tăng cao và chất lượng tốt (Fujita, M. và cộng sự 2006).
Tại Việt Nam, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm (OCOP)”, chính thức được Chính phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 Phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020. Theo đó, OCOP được xác định là một chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị, đồng thời là giải pháp quan trọng trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trọng tâm của chương trình OCOP là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp và dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, do các thành phần kinh tế trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể thực hiện.
Mối quan hệ du lịch nông nghiệp và sản phẩm OCOP
Mối quan hệ bổ trợ giá trị
OCOP và du lịch nông nghiệp cùng khai thác nguồn lực địa phương như sản phẩm nông nghiệp, làng nghề truyền thống, ẩm thực và di sản văn hóa… để tạo ra sản phẩm có “bản sắc vùng”. Du lịch trở thành kênh lan tỏa giá trị văn hóa - kinh tế - xã hội, đưa sản phẩm OCOP vượt khỏi phạm vi địa phương (Kurokawa, K. 2009). Du lịch nông nghiệp không thể tồn tại mà thiếu nội dung hấp dẫn mang bản sắc địa phương. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, OCOP nếu được kết nối với dịch vụ du lịch, sẽ mở rộng thị trường và đồng thời thúc đẩy “bản sắc vùng” - yếu tố quan trọng trong cạnh tranh điểm đến. Trong đó, sản phẩm OCOP đóng vai trò là nội dung cốt lõi giúp khách du lịch kết nối với văn hóa nông thôn qua trải nghiệm thực tế như thăm vùng nguyên liệu, chế biến, thưởng thức, mua sắm sản phẩm tại chỗ.
Theo báo cáo của UNDP (2022), sự kết hợp OCOP với du lịch là hình thức mở rộng thị trường theo cách tiếp cận trải nghiệm văn hóa – tiêu dùng, trong đó các hoạt động tại chỗ như thưởng thức sản phẩm, tham quan làng nghề, trải nghiệm quy trình sản xuất góp phần tăng doanh số và định vị thương hiệu vùng.
Mối quan hệ chuỗi giá trị mở rộng
Theo UNDP (2022), các chương trình du lịch, lễ hội OCOP, hội chợ triển lãm và nền tảng thương mại điện tử là kênh tiêu thụ đặc biệt hiệu quả cho sản phẩm OCOP. Những trải nghiệm tiêu dùng tại chỗ này vừa tăng doanh số bán hàng, vừa góp phần định vị thương hiệu vùng. Trong OCOP, người dân không còn là người sản xuất đơn thuần mà trở thành người sáng tạo trải nghiệm, chủ thể dịch vụ du lịch và người kể chuyện văn hóa. OCOP tạo điều kiện để người nông dân phát triển các sản phẩm đặc trưng, trong khi du lịch nông nghiệp mở rộng “sân khấu” để họ thể hiện bản sắc vùng miền. Thông qua hoạt động OCOP - du lịch, năng lực quản lý, giao tiếp, tiếp thị của người dân địa phương được nâng cao. Đây chính là nền tảng của phát triển nội sinh - một đặc trưng cốt lõi của OCOP (Igusa, 2006).
Mối quan hệ cộng sinh trong phát triển bền vững
OCOP được xem là kết tinh của tri thức bản địa, nguồn tài nguyên địa phương và tinh thần đổi mới sáng tạo tại cộng đồng nông thôn. Mỗi sản phẩm OCOP mang theo một câu chuyện, kỹ năng nghề truyền thống, đặc điểm sinh thái và bản sắc vùng miền, từ đó trở thành biểu tượng nhận diện văn hóa địa phương (Kurokawa, 2009). Trong khi đó, du lịch nông nghiệp không chỉ là công cụ tiêu thụ sản phẩm mà còn là kênh lan tỏa giá trị bản địa, thúc đẩy quá trình “kể chuyện” cho từng sản phẩm OCOP thông qua trải nghiệm thực tế như: thăm làng nghề, vùng nguyên liệu, chế biến nông sản, hay các lễ hội gắn với sản phẩm. Nhờ đó, du khách không chỉ mua một sản phẩm mà còn "mua cả trải nghiệm bản sắc và ký ức vùng miền" (Knight, 1994).
Sự phát triển đồng thời giữa OCOP và du lịch nông nghiệp không những gia tăng giá trị sản phẩm mà còn giúp người dân địa phương tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, chuyển từ vai trò sản xuất sang dịch vụ và từ nông dân thành “hướng dẫn viên bản địa”, chủ cơ sở homestay hoặc người sáng tạo trải nghiệm văn hóa (Tanwattana, 2006). Đặc biệt, trong bối cảnh xu hướng tiêu dùng hướng đến nông sản hữu cơ, bền vững, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, thì các sản phẩm OCOP vốn được kiểm định chất lượng, dán nhãn nhận diện vùng miền đáp ứng đúng kỳ vọng của thị trường du lịch hiện đại, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch nông nghiệp theo hướng xanh, văn hóa và có trách nhiệm (UNDP, 2022).
Lý thuyết nền
Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống là cách tiếp cận liên ngành nhằm phân tích các hiện tượng phức hợp bằng cách xem xét tổng thể các thành phần tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Theo Bertalanffy (1968), mọi hệ thống từ sinh học, xã hội đến kinh tế đều bao gồm các phần tử có mối quan hệ nội tại và sự thay đổi của một bộ phận có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Trong du lịch, Lý thuyết này giúp nhìn nhận du lịch như một hệ sinh thái liên ngành gồm: sản phẩm, con người, cộng đồng, môi trường và chính sách, tất cả tương tác và phát triển đồng thời.
Leiper (1979; 1990) xem du lịch như một hệ mở bao gồm 3 vùng địa lý liên kết chặt chẽ: Vùng sinh ra du khách (Tourist Generating Region), Hành lang vận chuyển (Transit Route Region) và Vùng điểm đến (Tourist Destination Region). Trong đó khách du lịch di chuyển từ vùng sinh ra qua hành lang vận chuyển đến điểm đến và quay trở lại, đồng thời phản hồi lẫn nhau với các dịch vụ do ngành du lịch cung cấp (vận chuyển, lưu trú, ăn uống, giải trí) và chịu ảnh hưởng của môi trường vĩ mô gồm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, công nghệ và sinh thái. Theo Leiper, 4 thành phần - con người (du khách), địa lý (3 vùng), công nghiệp du lịch (cung ứng dịch vụ) và môi trường (các yếu tố khung) tương tác liên tục với tính chất động, khiến bất kỳ thay đổi nào ở một bộ phận đều lan tỏa khắp hệ thống, tương tự “tấm lưới nhện”.
Theo Wiweka và cộng sự (2019), du lịch như một hệ thống bao gồm 2 loại tiểu hệ: tiểu hệ nội sinh và tiểu hệ ngoại sinh. Tiểu hệ nội sinh là tương tác giữa con người hay khách du lịch (gọi là nhu cầu du lịch) từ vùng sinh ra khách và trong hành trình đến điểm đến (gọi là cung ứng du lịch), được kết nối bởi các yếu tố trung gian, rồi quay trở lại vùng cội nguồn; Tiểu hệ ngoại sinh bao gồm các yếu tố: thương mại quốc tế, an ninh và an toàn, thiên nhiên hay khí hậu, xã hội - văn hóa, công nghệ, kinh tế - tài chính, chính trị, dân số và địa lý. Mối quan hệ giữa tiểu hệ nội sinh và tiểu hệ ngoại sinh không chỉ quyết định sự tồn tại của du lịch, mà ngược lại, sự phát triển của du lịch cũng có thể ảnh hưởng đến cả hai tiểu hệ này. Điểm thú vị của nghiên cứu là hiện tượng du lịch có thể bị “giới hạn” bởi chính góc nhìn của nó, được mô tả trong một hệ thống toàn diện và tích hợp. Mô hình này đã mô tả hiện tượng du lịch như một hệ thống trong đó sự tương tác xảy ra giữa hệ thống phụ nội bộ và ngoại vi cũng như trên từng yếu tố cấu thành của nó cụ thể như sau: (1) Vòng ngoài cùng (hệ thống phụ ngoại vi) gồm: Yếu tố tự nhiên, yếu tố văn hoá - xã hội, yếu tố công nghệ, yếu tố kinh tế, yếu tố thương mại quốc tế, yếu tố an toàn và an ninh, yếu tố nhân khẩu học, yếu tố chính trị; (2) Vòng trong (hệ thống phụ nội bộ) gồm: nhu cầu du lịch (động cơ và các yếu tố quyết định của khách), vùng tuyến quá cảnh và yếu tố trung gian (yếu tố tổ chức, yếu tố vật lý), nguồn cung du lịch (điểm tham quan, khả năng tiếp cận, tiện nghi, dịch vụ phụ trợ, hoạt động, các gói có sẵn, trao quyền cho cộng đồng, ưu đãi hoặc đầu tư, công nghệ).
Lý thuyết chuỗi giá trị
Nghiên cứu của Porter (1985) cho thấy, chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động của một công ty hoạt động trong một ngành cụ thể. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của một công ty hoạt động một ngành nghề cụ thể. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản xuất thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của các hoạt động.
Theo Kaplinsky và cộng sự (2002), dựa trên quan điểm của Michael Porter vào năm 2002 đã đưa ra khái niệm về chuỗi giá trị trong phân tích toàn cầu: “Chuỗi giá trị là tập hợp những hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm hoặc một dịch vụ từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau (bao gồm một kết hợp giữa sự biến đổi vật chất và đầu vào các dịch vụ sản xuất khác nhau), đến khi phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng”. Và một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra tối đa giá trị cho chuỗi. Chuỗi giá trị toàn cầu là một dây chuyền sản xuất kinh doanh theo phương thức toàn cầu hoá trong đó có nhiều nước tham gia, chủ yếu là các doanh nghiệp tham gia vào các công đoạn khác nhau từ thiết kế, chế tạo, tiếp thị đến phân phối và hỗ trợ người tiêu dùng”.
Theo Nguyễn Đức Thắng (2023), chuỗi giá trị du lịch, hiểu ở phạm vi doanh nghiệp du lịch bao gồm chuỗi các hoạt động từ thiết kế sản phẩm, mua dịch vụ, tiếp thị, bán hàng, điều hành, hướng dẫn du lịch để mang đến sản phẩm là sự trải nghiệm thăng hoa cho du khách và mang lại giá trị và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chuỗi giá trị du lịch hiểu ở phạm vi mở rộng bao gồm chuỗi hoạt động từ xúc tiến, quảng bá, giao thông vận tải (đường bộ, đường thủy, đường không), thủ tục xuất nhập cảnh, quản lý điểm đến, môi trường du lịch, vệ sinh an toàn thực phẩm… của nhiều tổ chức, ban, ngành liên quan, các doanh nghiệp và người dân để cùng đưa những đầu vào là giá trị các tài nguyên du lịch tự nhiên, các giá trị văn hóa, lịch sử… thành sản phẩm đầu ra mang lại cảm xúc thăng hoa cho du khách, từ đó mang lại nguồn thu và lợi nhuận lớn cho ngành du lịch và đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của cả quốc gia.
ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CHO TP. HỒ CHÍ MINH
Dựa trên kết quả phân tích và thảo luận, nghiên cứu đề xuất mô hình phát triển DLNNĐT gắn với sản phẩm OCOP cho TP. Hồ Chí Minh với 3 thành tố chính: Cấu trúc hệ thống, Chuỗi giá trị trải nghiệm và Cơ chế phản hồi. Trong đó:
Cấu trúc hệ thống: Sản phẩm OCOP được đặt ở vị trí trung tâm, là cầu nối giữa các nguồn lực bối cảnh (đất đai, tri thức, chính sách) với các tác nhân then chốt (nông hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp OCOP, lữ hành, cơ quan quản lý). Chính quyền giữ vai trò điều phối, hỗ trợ và đảm bảo sự phối hợp liên ngành.
Chuỗi giá trị trải nghiệm: Giá trị được gia tăng liên tục từ sản xuất, chuẩn hóa OCOP, đến tổ chức hoạt động du lịch, marketing và tiêu thụ. Điểm nhấn của mô hình là coi sản phẩm OCOP không chỉ là hàng hóa mà còn là một “câu chuyện sống”, gắn liền với hành trình trải nghiệm của du khách.
Cơ chế phản hồi: Sự hài lòng và hành vi tái tiêu dùng của du khách vừa là kết quả, vừa là đầu vào để cải tiến sản phẩm, đổi mới trải nghiệm và hoàn thiện quản trị, tạo ra một vòng tuần hoàn đổi mới.
Hình: Mô hình nghiên cứu phát triển du lịch nông nghiệp đô thị gắn với sản phẩm OCOP tại Thành phố Hồ Chí Minh
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp đề xuất
Trong đó:
Biến độc lập: Hạ tầng du lịch, gồm: Giao thông, cơ sở vật chất, tiện ích tại điểm đến; Dịch vụ và sản phẩm du lịch gồm: Lưu trú, ăn uống, hướng dẫn, trải nghiệm nông nghiệp; Sự tham gia cộng đồng gồm: Mức độ tham gia hoặc đồng thuận của nông hộ - hợp tác xã về đào tạo năng lực; Chính sách và quản lý gồm: Hỗ trợ vốn, đất, đào tạo, tiêu chuẩn hóa, liên kết công - tư.
Biến trung gian: Hiệu quả chuỗi giá trị OCOP gồm: Chất lượng và nhận diện sản phẩm; Thiết kế trải nghiệm gắn OCOP; Kết nối thị trường, marketing.
Biến điều tiết: Mức độ phối hợp các bên liên quan gồm: Cơ chế phối hợp giữa Nông hộ - Doanh nghiệp - Nhà nước - Khách du lịch (chia sẻ thông tin, hợp đồng, điều phối).
Biến phụ thuộc: Phát triển du lịch nông nghiệp đô thị bền vững gồm: Sức hấp dẫn điểm đến, hài lòng và ý định quay lại, giới thiệu, thu nhập nông hộ, thực hành bền vững.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã xây dựng thành công một mô hình lý thuyết toàn diện cho việc phát triển DLNNĐT gắn với sản phẩm OCOP tại TP. Hồ Chí Minh, khẳng định đây là một hướng đi chiến lược, dung hòa các mục tiêu kinh tế, sinh thái và xã hội. Phân tích đã chỉ ra khoảng trống học thuật và thực tiễn trong việc tích hợp hai yếu tố này tại một siêu đô thị. Mô hình đề xuất với 3 thành tố cốt lõi – cấu trúc hệ thống, chuỗi giá trị trải nghiệm và cơ chế phản hồi – đã cung cấp một khung khổ lý luận và thực tiễn để giải quyết các thách thức, biến sản phẩm OCOP thành “hạt nhân” của một chuỗi giá trị trải nghiệm độc đáo, bền vững.
Nghiên cứu này dù đã xây dựng được một khung khái niệm tương đối toàn diện nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế. Thứ nhất, mô hình đề xuất chủ yếu dựa trên tổng quan lý thuyết và phân tích định tính, cần được kiểm chứng thực nghiệm thông qua các nghiên cứu định lượng để đo lường mức độ tác động của các yếu tố. Thứ hai, nghiên cứu tập trung vào bối cảnh TP. Hồ Chí Minh, do đó khả năng khái quát hóa cho các đô thị khác cần được xem xét cẩn trọng.
Tài liệu tham khảo
1. Anthopoulou, T., and Melissourgos, Y. (2012). Agritourism: between rural change, tourism restructuring and environmental imperatives. In The Routledge Handbook of Tourism and the Environment (359-370). Routledge.
2. Barbieri C, Mshenga P (2008). The role of firm and owner characteristics on the performance of agritourism farms. Sociologia Ruralis, 48, 166-183.
3. Bertalanffy, L. von. (1968). General System Theory: Foundations, Development, Applications. New York: George Braziller.
4. FAO, Rikolto and RUAF. 2022. Urban and peri-urban agriculture sourcebook – From production to food systems. Rome. https://doi.org/10.4060/cb9722en.
5. Fujita, M. (2006). Economic Development Capitalizing on Brand Agriculture: Turning Development Strategy on Its Head. Institute of Developing Economies (IDE), Chiba, Japan.
6. Igusa, K. (2006). Globalization in Asia and Local Revitalization Efforts: a view from one village one product (OVOP) movement in Oita. Retriev, 18.
7. Igusa, K (2008). The Problem of the Regional Revitalization in Asia and One Village One Product-Adaptability of Oita Model to Asian Countries. J. OVOP Policy, 1, 5-19
8. Kaplinsky, R., Morris, M., and Readman, J. (2002). Understanding Upgrading Using Value Chain Analysis. In BAM 2002 BAM.
9. Knight, J. (1994). Rural revitalization in Japan: Spirit of the village and taste of the country. Asian Survey, 34(7), 634-646.
10. Kurokawa, K. (2009). Effectiveness and limitations of the One Village One Product (OVOP) approach. Studies in Regional Science, 39(4), 977-989.
11. Leiper, N. (1979). The framework of tourism: Towards a definition of tourism, tourist, and the tourist industry. Annals of tourism research, 6(4), 390-407.
12. Leiper, N. (1990). Tourist attraction systems. Annals of tourism research, 17(3), 367-384.
13. Nguyễn Đức Thắng (2023). Xây dựng và gia tăng chuỗi giá trị du lịch của tỉnh Bắc Ninh. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/05/04/xay-dung-va-gia-tang-chuoi-gia-tri-du-lich-cua-tinh-bac-ninh/.
14. Nguyễn Văn Lưu (2024). Tăng cường phát triển sản phẩm du lịch đặc thù để du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. https://vietnamtourism.gov.vn/post/29572
15. Porter, M.E. (1985). Competitive Advantage. Creating and Sustaining Superior Performance. Free Press, New York
16. Tanwattana, P (2006). Human Development as Social Capital for Community Development: A Chronology Study of Rural Community Development in Oita Prefecture, Japan. Institute of Developing Economies (IDE): Chiba, Japan.
17. UNDP (2022). Annual report 2022
18. Wiweka, K., and Arcana, K. T. P. (2019). Rethinking the Theory of Tourism: What is Tourism System in Theoretical and Empirical Perspective?. Journal of Business on Hospitality and Tourism, 5(2).
19. Zhou Xiaofang (2002). On the Development of Urban Agricultural Tourism in Guangzhou. Agricultural Modernization Research, 23(2), 124-126.
Ngày nhận bài: 21/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 24/8/2025; Ngày duyệt đăng: 29/8/2025 |