Giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân và công bằng thuế: Cơ sở lý luận và thực tiễn

Việc cải cách chính sách giảm trừ gia cảnh một cách kịp thời, hợp lý và linh hoạt là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc công bằng thuế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế thu nhập cá nhân.

Lê Xuân Trường

Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính

Email: lexuantruong@hvtc.edu.vn

Lê Anh Tuấn

Bộ Tài chính

Email: leanhtuan@mof.gov.vn

Nguyễn Thị Thanh Tâm

Học viện Tài chính

Email: nguyenthanhtam1122004@gmail.com

Tóm tắt

Giảm trừ gia cảnh là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập tính thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Bài viết này phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN dưới góc nhìn công bằng thuế. Đồng thời, đánh giá thực trạng giảm trừ gia cảnh trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị hoàn thiện chính sách.

Từ khóa: Giảm trừ gia cảnh, thuế thu nhập cá nhân, công bằng thuế.

Summary

Family circumstance-based deductions are among the key factors influencing personal income tax. This paper analyzes both the theoretical and practical foundations of family circumstance-based deductions in personal income tax calculations from the perspective of tax equity. It also assesses the current state of such deductions in the context of Vietnam and offers several several policy recommendations.

Keywords: Family circumstance-based deductions, personal income tax, tax equity.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong hệ thống thuế TNCN tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, giảm trừ gia cảnh là một chính sách quan trọng nhằm đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong quá trình đánh thuế. Đây là khoản thu nhập được miễn tính thuế nhằm phản ánh phần chi tiêu thiết yếu tối thiểu của cá nhân người nộp thuế và những người phụ thuộc của họ. Hiểu một cách đơn giản, sau khi trừ đi khoản giảm trừ gia cảnh, phần thu nhập còn lại mới là cơ sở để tính thuế.

Chính sách giảm trừ gia cảnh được thiết kế với mục tiêu bảo vệ người có thu nhập thấp, giảm gánh nặng tài chính cho người nuôi dưỡng thân nhân, và hướng tới một hệ thống thuế công bằng, theo khả năng nộp thuế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến mức giảm trừ, cách xác định người phụ thuộc và khả năng phản ánh đúng sự chênh lệch chi phí sinh hoạt giữa các vùng miền. Những điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính công bằng trong thuế – một nguyên tắc cốt lõi trong thiết kế chính sách thuế.

Do đó, việc cải cách chính sách giảm trừ gia cảnh một cách kịp thời, hợp lý và linh hoạt là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc công bằng thuế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế TNCN.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Bản chất kinh tế của giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN

Giảm trừ gia cảnh là số tiền trừ vào thu nhập chịu thuế TNCN khi xác định thu nhập tính thuế dựa trên hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế. Theo thông lệ các nước, giảm trừ gia cảnh thường được áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công hoặc/và thu nhập từ kinh doanh của cá nhân cư trú. Đối với những nước đánh thuế TNCN trên tổng thu nhập thì giảm trừ gia cảnh được xác định khi xác định thu nhập tính thuế đối với tổng thu nhập.

Quy định giảm trừ xuất phát từ quan điểm đánh thuế TNCN phải đảm bảo sau khi nộp thuế, người nộp thuế có thu nhập để trang trải cuộc sống ở mức trung bình của xã hội. Điều này có nghĩa là, xác định mức giảm trừ sao cho sau khi nộp thuế cho nhà nước thì người nộp thuế đảm bảo cuộc sống ở mức cần thiết trung bình xã hội. Từ đó, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của dân cư và đảm bảo đời sống cho người nộp thuế.

Khía cạnh công bằng thuế khi xác định giảm trừ gia cảnh

Trong đánh thuế, công bằng được xét trên hai phương diện là: công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.

Công bằng theo chiều ngang được hiểu là những người như nhau về mọi mặt thì đối xử như nhau về thuế. Trong thực tiễn cuộc sống, không tồn tại những người như nhau “về mọi mặt”. Bởi vậy, việc vận dụng trong thực tiễn nhằm đảm bảo những người về cơ bản như nhau thì đối xử như nhau về thuế.

Công bằng theo chiều dọc được hiểu là những người có khả năng trả thuế cao hơn thì phải trả thuế nhiều hơn. Khả năng trả thuế thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập kiếm được và giá trị tài sản sở hữu. Giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN đảm bảo công bằng theo chiều dọc thể hiện ở chỗ: việc giảm trừ cho người phụ thuộc giúp phản ánh đúng khả năng trả thuế khác nhau của những người có cùng mức thu nhập nhưng hoàn cảnh gia đình khác nhau. Chẳng hạn như, hai người có cùng mức thu nhập nhưng hoàn cảnh gia đình khác nhau, một người độc thân, người còn lại có 2 người phụ thuộc phải nuôi dưỡng. Trong hệ thống giảm trừ tiêu chuẩn (tức là giảm một mức cố định cho mọi người nộp thuế, không áp dụng giảm trừ cho người phụ thuộc) thì số thuế phải nộp của hai người này như nhau do có thu nhập tính thuế bằng nhau, nhưng khả năng trả thuế của người phải nuôi hai người phụ thuộc rõ ràng là thấp hơn so với người độc thân. Bằng việc áp dụng giảm trừ cho người phụ thuộc thì số thuế phải nộp của người phải nuôi 2 người phụ thuộc thấp hơn số thuế phải nộp của người độc thân. Điều này đảm bảo người có khả năng trả thuế cao hơn thì trả thuế nhiều hơn.

THÔNG LỆ QUỐC TẾ VỀ XÁC ĐỊNH GIẢM TRỪ GIA CẢNH

Về mức giảm trừ gia cảnh

Mức giảm trừ gia cảnh của các quốc gia trên thế giới khá khác biệt, trải dài trong khoảng tương đương từ 0,03 đến 1,5 lần GDP bình quân đầu người; nếu tính thêm giảm trừ cho người phụ thuộc thì mức giảm trừ gia cảnh thường tương đương khoảng từ 0,1 đến 2 lần GDP bình quân đầu người. Mức giảm trừ gia cảnh ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và một số nước phát triển trên thế giới như sau:

Ở Thái Lan, mức giảm trừ áp dụng cho từng nhóm thu nhập chịu thuế TNCN với nhiều ngưỡng và giới hạn. Mức giảm trừ bản thân (Personal Allowance) áp dụng chung cho năm tính thuế 2024 là 60.000 Baht, tương đương khoảng 1.700 USD. Thêm vào đó, biểu thuế lũy tiến từng phần của Thái Lan quy định mức thuế suất 0% áp dụng đối với phần thu nhập tính thuế từ 150.000 Bahth trở xuống. Như vậy, xét về bản chất, mức giảm trừ thực sự cho bản thân mỗi người nộp thuế là 210.000 Baht, tương đương 6.150 USD. Mức giảm trừ đối với người phụ thuộc là con cái hoặc cha mẹ là 30.000 Baht/người, tương đương khoảng 850 USD. Tuy nhiên, nếu là con thứ hai và sinh từ năm 2018 trở đi thì mức giảm trừ là 60.000 Baht. Mức giảm trừ cho người phụ thuộc là vợ/chồng là 60.000 Baht. Như vậy, với mức GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2024 là 7.352 USD thì mức giảm trừ mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng 0,83 lần GDP bình quân đầu người. Tùy theo số lượng người phụ thuộc và điều kiện cụ thể mà mức giảm trừ gia cảnh có thể bằng từ 1 lần đến 2 lần GDP bình quân đầu người.

Tại Malaysia, năm tài chính 2024-2025, giảm trừ bản thân người nộp thuế là 9.000 Ringgit, tương đương khoảng 2.000 USD. Với GDP bình quân đầu người năm 2024 của Malaysia là 13.140 USD thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng 0,15 lần GDP bình quân đầu người. Nếu bản thân người nộp thuế là người khuyết tật thì được giảm trừ thêm 6.000 Ringgit. Tùy theo những người phụ thuộc khác mà mức giảm trừ có thể từ 2.000 đến 6.000 Ringgit. Như vậy, tính cả giảm trừ cho người phụ thuộc thì tùy theo hoàn cảnh cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh ở Malaysia bằng khoảng từ 0,15 lần đến 0,4 lần GDP bình quân đầu người.

Ở Singapore, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế tăng dần theo độ tuổi. Theo đó, người dưới 55 tuổi được giảm trừ 4.000 SGD (khoảng 2.962 USD), người từ 55 đến 59 tuổi được giảm trừ 10.000 SGD (khoảng 7.407 USD), người từ 60 tuổi trở lên được giảm trừ 12.000 SGD (khoảng 8.888 USD). Như vậy, với GDP bình quân đầu người của Singapore năm 2024 khoảng 89.372 USD thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng từ 0,033 lần đến 0,099 lần GDP bình quân đầu người. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc ở Singapore được xác định rất chi tiết liên quan đến từng loại người phụ thuộc với mức giảm trừ từ 2.000 SGD đến 10.000 SGD. Riêng giảm trừ đối với con cho phụ nữ đi làm (con dưới 16 tuổi hoặc từ 16 tuổi trở lên đang học toàn thời gian ở đại học, cao đẳng hoặc học nghề) thì tùy theo có thứ mấy mà được giảm trừ từ 15% thu nhập chịu thuế đến 25% thu nhập chịu thuế nhưng tổng các khoản giảm trừ cho con tối đa là 50.000 SGD. Có thể thấy giảm trừ gia cảnh ở Singapore bằng khoảng từ 0,033 lần đến 0,4 lần GDP bình quân đầu người.

Ở Anh, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế cho năm tính thuế 2024/2025 là 12.570 Bảng Anh (khoảng 15.838 USD). Với GDP bình quân đầu người năm 2024 khoảng 52.423 USD thì mức giảm trừ bản thân ở Anh bằng khoảng 0,3 lần GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế ở Anh có điểm đặc biệt là, khi người nộp thuế có thu nhập chịu thuế trong năm tính thuế vượt quá 100,000 Bảng Anh thì khi thu nhập tăng 2 Bảng Anh, mức giảm trừ giảm 1 Bảng Anh. Điều này có nghĩa là khi người nộp thuế có thu nhập chịu thuế từ 125.140 Bảng Anh trở lên thì mức giảm trừ bản thân bằng 0.

Ở Đức, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế năm 2024 là 11.604 EUR (khoảng 12.000 USD). Với GDP bình quân đầu người năm 2024 là 55.521 USD thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế ở Đức bằng khoảng 0,22 lần GDP bình quân đầu người. Mức giảm trừ cho người phụ thuộc tùy theo đối tượng cụ thể từ 6.384 EUR đến 9.312 EUR. Như vậy, tùy theo hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế mà mức giảm trừ gia cảnh ở Đức bằng khoảng từ 0,22 đến 0,6 lần GDP bình quân đầu người.

Ở Mỹ, mức giảm trừ đối với bản thân người nộp thuế năm 2024 là 14.600 USD, đối với hai vợ chồng kê khai chung tờ khai thuế TNCN thì mức giảm trừ là 29.200 USD, đối với chủ hộ kinh doanh thì mức giảm trừ là 21.900 USD. Với GDP bình quân đầu người của Mỹ là 86.601 USD thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng 0,17 lần GDP bình quân đầu người, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế là chủ hộ kinh doanh bằng 0,25 lần GDP bình quân đầu người.

Về các đối tượng được giảm trừ

Ngoài giảm trừ cho bản thân người nộp thuế, các đối tượng là người phụ thuộc được giảm trừ phổ biến nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới là giảm trừ cho con, vợ hoặc chồng, cha, mẹ và anh/chị/em ruột của người nộp thuế. Ngoài ra, một số quốc gia có quy định giảm trừ cho người phụ thuộc là ông, bà của người nộp thuế. Một số quốc gia quy định giảm trừ bổ sung đối với hoàn cảnh đặc biệt của người nộp thuế. Đơn cử như Singapore, Malaysia, Đức, Slovenia giảm trừ thêm cho bản thân người nộp thuế nếu người nộp thuế là người khuyết tật hoặc người phụ thuộc của người nộp thuế là người khuyết tật. Croatia giảm trừ thêm cho bản thân người nộp thuế là cựu chiến binh bị khuyết tật. Thái Lan quy định giảm trừ thêm nếu sinh con thứ hai trở lên (tính từ năm 2018 trở đi). Ở Mỹ, bản thân người nộp thuế bị mù hoặc tuổi từ 65 trở lên cũng được giảm trừ thêm.

Ngoài giảm trừ gia cảnh, một số quốc gia cũng quy định giảm trừ có tính chất kinh tế liên quan đến chi tiêu của người nộp thuế. Mỹ quy định giảm trừ cho một số khoản chi tiêu của cá nhân người nộp thuế như: chi phí y tế, đi lại, mua máy tính, điện thoại, đồng phục. Những khoản chi này bị giới hạn một trần nhất định khi xác định giảm trừ tính thuế TNCN. Singapore quy định giảm trừ cho khoản học phí tham gia các khóa học hoặc hội thảo về học thuật hoặc để nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Đặc biệt, năm 2024 và 2025, Thái Lan có một số quy định giảm trừ rất đặc biệt: giảm trừ cho khoản chi tiêu xây dựng nhà ở trong quãng thời gian từ 9/4/2024 đến 31/12/2025 với mức giảm trừ cứ chi tiêu 1.000.000 Baht thì được giảm trừ 10.000 Baht nhưng giới hạn tối đa giảm trừ 100.000 Baht; giảm trừ cho các khoản chi tiêu mua sắm hàng hóa, dịch vụ trong quãng thời gian từ 1/1/2024 đến 15/2/2024 theo số tiền thực tế chi tiêu nhưng tối đa là 50.000 Baht; giảm trừ cho chi tiêu du lịch nội địa trong quãng thời gian từ 1/5/2024 đến ngày 30/11/2024 theo số tiền thực tế chi tiêu nhưng tối đa là 15.000 Baht.

Về tần suất điều chỉnh mức giảm trừ

Trước đây, đa phần các quốc gia đều điều chỉnh mức giảm trừ theo một chu kỳ nhất định. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, một số quôc gia chuyển sang hệ thống xác định giảm trừ gia cảnh hàng năm. Việc xác định mức giảm trừ hàng năm không có nghĩa là năm nào cũng thay đổi mức giảm trừ gia cảnh. Chẳng hạn như ở Anh, mức giảm trừ năm tính thuế 2016/2017 là 11.000 Bảng Anh, năm tính thuế 2017/2018 nâng lên là 11.5000 Bảng Anh, năm tính thuế 2018/2019 tăng tiếp lên 11.850 Bảng Anh, năm tính thuế 2019/2020 lên 12.500 Bảng Anh và giữ mức nguyên mức này cho năm tính thuế 2020/2021, năm tính thuế 2021/2022 được điều chỉnh lên mức 12.570 Bảng Anh và giữ nguyên mức này cho 3 năm tính thuế tiếp theo đến năm tính thuế 2024/2025. Ở Đức, mức giảm trừ bản thân năm 2021 là 9.744 EUR, năm 2022 là 9.984 EUR, năm 2023 là 10.908 EUR và năm 2024 là 11.604 EUR.

THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH GIẢM TRỪ GIA CẢNH Ở VIỆT NAM

Luật Thuế TNCN của Việt Nam được ban hành năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009. Giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN ở Việt Nam áp dụng đối với bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc. Người phụ thuộc của người nộp thuế bao gồm: con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động; các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.

Luật Thuế TNCN quy định, khi chỉ số giá tiêu dùng biến động trên 20% thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Mức giảm trừ xác định lần đầu khi Luật Thuế TNCN có hiệu lực cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm) và 1,6 triệu đồng/tháng đối với mỗi người phụ thuộc. Các mức này được điều chỉnh năm 2013 lên tương ứng là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm) và 3,6 triệu đồng/tháng/người. Năm 2020 được điều chỉnh tiếp lên tương ứng là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm).

Để có cùng mặt bằng so sánh, cần đặt mức giảm trừ gia cảnh của Việt Nam trong tương quan với GDP bình quân đầu người và để đơn giản hóa, chỉ cần so sánh mức giảm trừ bản thân người nộp thuế với GDP bình quân đầu người. Theo đó, tại thời điểm năm 2009, mức giảm trừ bản thân người nộp thuế bằng khoảng 2,25 lần GDP bình quân đầu người. Đến thời điểm trước khi điều chỉnh năm 2013 thì mức giảm trừ bản thân bằng khoảng 1,17 lần GDP bình quân đầu người. Sau khi điều chỉnh thì mức giảm trừ bản thân năm 2013 bằng khoảng 2,64 lần GDP bình quân đầu người. Năm 2019, tức là trước lần điều chỉnh gần nhất, mức giảm trừ bản thân bằng khoảng 1,37 lần GDP bình quân đầu người. Sau khi điều chỉnh năm 2020, mức giảm trừ bản thân bằng khoảng 1,52 lần GDP bình quân đầu người. Năm 2024, mức giảm trừ bản thân bằng khoảng 1,15 lần GDP bình quân đầu người. Như vậy, có thể thấy, khi so sánh mức giảm trừ bản thân của Việt Nam với GDP bình quân đầu người thì mức giảm trừ bản thân của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. So với Indonesia, một nước trong khu vực Đông Nam Á và ở trình độ phát triển tương đương (GDP đầu người của Indonesia năm 2024 là 4.981 USD, còn GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2024 là 4.700 USD) thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế của Việt Nam cao hơn khoảng 50%. Cần lưu ý rằng, việc so sánh trên chỉ mang tính tham khảo vì để xác định mức giảm trừ gia cảnh có phù hợp không, có công bằng không cần xét nhiều yếu tố có liên quan khác như các mức thuế suất cụ thể và các ngưỡng trong biểu thuế, các khoản giảm trừ khác ngoài giảm trừ gia cảnh, GDP theo ngang giá sức mua…

Xét mức giảm trừ hiện đang áp dụng so với các điều kiện kinh tế - xã hội có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

Một là, tuy so với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ năm 2020 đến nay (CPI từ năm 2020 đến năm 2024 lần lượt là: 3,23%, 1,84%, 3,15%, 3,25% và 3,63%; dự kiến năm 2025 khoảng từ 4,5% đến 5%) thì chưa đến ngưỡng cần điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo quy định của Luật Thuế TNCN, song so với một số yếu tố khác như: sự thay đổi mức sống phản ánh trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người hoặc chính sách nâng cao mức sống người dân của Nhà nước… thì mức giảm trừ gia cảnh đã lạc hậu, cần được điều chỉnh.

Hai là, quy định hiện hành về hồ sơ, thủ tục giảm trừ gia cảnh không phù hợp với điều kiện chuyển đổi số của nền kinh tế do vẫn áp dụng các thủ tục, hồ sơ giấy và thiếu tính liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Ba là, tần suất và thẩm quyền điều chỉnh giảm trừ gia cảnh không phù hợp. Quy định áp dụng từ năm 2009 đến nay là khi chỉ số giá tiêu dùng CPI biến động trên 20% thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ không đảm bảo sự tương thích giữa biến động thu nhập, mức sống dân cư với giảm trừ gia cảnh, điều này tạo ra khoảng cách lớn về giá trị tương đối của mức giảm trừ giữa các lần điều chỉnh.

KHUYẾN NGHỊ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ NHẰM NÂNG CAO TÍNH CÔNG BẰNG VÀ HỢP LÝ TRONG ÁP DỤNG GIẢM TRỪ GIA CẢNH

Từ những phân tích trên về bản chất của giảm trừ gia cảnh, thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, trong thời gian tới khi sửa đổi Luật Thuế TNCN có thể cân nhắc áp dụng một số đề xuất sau đây:

Thứ nhất, trong khoảng 5 năm tới nước ta vẫn ở nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình nên cần chấp nhận xác định mức giảm trừ gia cảnh tương đối cao so với GDP. Theo đó, cần xác định mức giảm trừ bản thân người nộp thuế sao cho đảm bảo tương đương khoảng 1,5 lần GDP bình quân đầu người (nếu so với GDP theo ngang giá sức mua thì mức giảm trừ này chỉ bằng khoảng 0,6 lần, tức là tương đương với các nước có trình độ phát triển tương đồng). Giữ nguyên nguyên tắc giảm trừ mỗi người phụ thuộc bằng 40% giảm trừ bản thân người nộp thuế.

Thứ hai, bổ sung giảm trừ thêm một mức so với giảm trừ chung cho đối tượng người nộp thuế là người khuyết tật và người phụ thuộc của người nộp thuế là người khuyết tật.

Thứ ba, sau lần đầu tiên được quy định trong Luật, cần quy định mức giảm trừ gia cảnh được xác định hàng năm theo nguyên tắc điều chỉnh tương đương với chỉ số CPI và giao quyền cho Chính phủ quyết định mức giảm trừ gia cảnh hàng năm. Việc quyết định mức giảm trừ hàng năm không đồng nghĩa với việc điều chỉnh hàng năm. Nếu tại thời điểm xem xét, các điều kiện thực tiễn cho thấy cần điều chỉnh thì sẽ điều chỉnh. Nếu không cần điều chỉnh thì vẫn giữ nguyên.

Thứ tư, cần cải cách thủ tục hành chính về giảm trừ gia cảnh theo hướng tích hợp với các thông tin định danh của cá nhân công dân cho những trường hợp đã có thông tin tích hợp với số định danh cá nhân. Những trường hợp không có thông tin tích hợp ở số định danh cá nhân thì thực hiện thủ tục hành chính thuế điện tử và hồ sơ điện tử.

Ngoài ra, do trong chương trình làm luật của Quốc hội thì Luật Thuế TNCN (sửa đổi) sẽ được thông qua vào kỳ họp tháng 6/2026 để áp dụng từ ngày 1/1/2027. Nếu đợi đến thời điểm đó mới điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh thì quá muộn, không đáp ứng đòi hỏi bức thiết của thực tiễn. Do vậy, nhóm tác giả cho rằng, trong năm 2025, Chính phủ cần trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo thẩm quyền quy định. Mức giảm trừ được điều chỉnh cần tính toán trên cơ sở tổng hợp nhiều yếu tố như: Chỉ số CPI, sự biến động của thu nhập bình quân đầu người, GDP ngang giá sức mua…/.

Tài liệu tham khảo

1. IMF (2024). GDP current prices, retrieved from https://www.imf.org/external/datamapper.

2. Lê Xuân Trường (2012). Nâng mức giảm trừ gia cảnh, Tạp chí Thuế Nhà nước, 12(370).

3. Lê Xuân Trường (2019). Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, Tạp chí Thuế Nhà nước, 38(761).

Ngày nhận bài: 11/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 02/6/2025; Ngày duyệt đăng: 11/6/2025